Thứ Bảy, 10 tháng 6, 2017




BỐN BƯỚC TIẾN BỘ CỦA
THIỀN

NGUYÊN CHƯƠNG
Biên soạn
(Theo Wikipedia)

MÙA AN CƯ PL. 2.561
(Tháng 6-2017)

TỊNH THẤT NGUYÊN CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh
Tỉnh Quảng Nam
ẤN TỐNG



        Trong bài viết nầy, chúng ta thử thâm nhập sâu hơn vào lĩnh vực thiền để thấy rõ những điều diệu kỳ của pháp môn Thiền Định.
        Muốn đi vào thiền định, trước hết phải đạt được chánh niệm. Trong thiền Tứ Niệm Xứ, dù niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, hay niệm Pháp cũng đều luôn chú tâm vào hơi thở, nên hơi thở là chánh niệm của pháp môn nầy.
        Muốn nhập định thì cần như-lý-tác-ý (tức nhìn sự vật đúng với bản chất của nó, nghĩa là vật chất là duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã - NC), loại bỏ dần suy nghĩ bất thiện, sau một thời gian luyện tập Thiền thì tâm không loạn động như trước, bớt suy nghĩ bất thiện, không còn đau chân, mỏi lưng, loại bỏ bớt vọng tưởng (những suy nghĩ  lung tung tự động khởi niệm trong đầu - NC).
        Thiền là lĩnh vực tâm linh nên ta phải tự lực cánh sinh. Vì phải có quyết tâm cao, chịu đựng sự đau chân, mỏi lưng, buồn ngủ, nên lâu ngày hành giả sẽ có được đức tính kiên nhẫn, ý chí sắt đá, sức chịu đựng cao, trực giác tốt,… và thư giãn thân tâm của mình.
        Đạt được chánh niệm rồi, hành giã sẽ bước vào thiền định một cách tự nhiên và nhẹ nhàng. Sau khi nhập định an ổn, tuỳ theo nhân duyên, hành giã sẽ lần lượt đạt được những kết quả đáng ngạc nhiên sau :

1.   Sơ thiền
        Là mức nhập định đầu tiên, nhưng phải là đã chứng được Chánh niệm tĩnh giác và phá trừ xong Năm triền cái ( là năm chướng ngại lớn khi tham thiền : tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi  - NC). Hành giả như lọt vào một trạng thái thanh tịnh hơn, và tự động, chứ không còn phải gắng sức giữ gìn như trong chánh niệm tĩnh giác nữa. Khi chứng được Chánh niệm, hành giả thấy tâm mình cũng đã là thanh tịnh rồi, nhưng còn phải khéo léo giữ gìn nhẹ nhẹ. Nhưng từ Sơ Thiền trở đi, hành giả không còn phải giữ gìn nữa mà tâm tự động an trú trong định. Hành giả thấy thân của mình chuyển động từ trạng thái cứng (lúc phá xong triền cái Trạo cử - NC) sang trạng thái mềm lỏng như một khối nước gì nhớt nhớt giống như nước xà phòng.
        Tâm hành giả dĩ nhiên là vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn những ý niệm về công phu của mình, về thành tựu của mình. Những ý niệm này rất thầm lặng, nên hầu như hành giả không biết là mình đang còn ý niệm, cứ tưởng rằng mình đã hoàn toàn thanh tịnh. Phật diễn tả đó là trạng thái “ly dục sinh hỷ, hữu tầm hữu tứ” (xóa bỏ Ái Dục, đạt được An vui, nhưng vẫn còn tiềm ẩn - NC).
        Trong Sơ thiền, hành giả lìa bỏ được các ham muốn thế gian vì niềm an vui của nội tâm vừa đầy đủ, vừa thanh khiết, không cần phải giải trí bằng vật chất bên ngoài. Toàn thân hành giả luôn ở trong trạng thái vui sướng nhè nhẹ và tràn đầy. Sau khi chết, nếu vẫn còn giữ được trình độ này thì sẽ sinh vào cõi trời Sơ Thiền (tương đương cõi Thiên).
        Cái ý niệm thầm kín về công phu và sự thành tựu của mình tạo nên một loại kiến giải Phật Pháp và tâm tự hào bí mật. Hành giả sẽ dễ dàng đối đáp trôi chảy và nắm bắt các lĩnh vực khó, trừu tượng, hay say sưa diễn thuyết lưu loát nếu có cơ hội. Tuy vậy, Sơ thiền rất là vĩ đại nhưng cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ đối với đạo đức (như dễ tự mãn, tự kiêu, tự phụ,…- NC).
        Giai đoạn nầy tương ưng với Niệm Thân trong thiền Tứ Niệm Xứ (Nguyên Chương đã trình bày trong bài Phương pháp ngồi thiền đã xuất bản). Khi hành giã quán thân vô thường, thì lần lượt thấy các bộ phận trong cơ thể như lục phủ ngũ tạng, tay chân, đầu mình, da thịt biến mất, 360 đốt xương như không còn gân thịt bám dính nữa nên tự động rã rời. Hành giã sẽ thấy còn bộ xương trơ khung lỏng lẽo, rồi xương cũng bị nham thiền ăn mòn như a-cít ăn mòn sắt vậy. Cuối cùng hành giã thấy mình chẳng còn gì nữa hết. Thân hành giã biến thành chất nhơn nhớt như nước xà phòng, vì tất cả đều tan nhưng chưa biến nên nước có vẻ đặc (NC).

2.   Nhị thiền
        Là kết quả tiếp theo nếu hành giả đủ công đức và nhân duyên. Hành giả sẽ thấy toàn thân mình giống như nước trong mát tuôn trào bất tận mà Phật diễn tả như hồ nước được suối phun và mưa tuôn mãi mà không bao giờ lọt nước ra khỏi hồ. Dĩ nhiên nước thì mềm hơn, lỏng hơn nước sền sệt của xà phòng. Từ toàn thân cứng của Chánh niệm, tiến lên Sơ thiền thì thân sền sệt như nước xà phòng, tới Nhị thiền thì thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại còn thêm cảm giác tuôn trào mãi mãi.
        Niềm vui của Nhị Thiền thì đằm thắm hơn Sơ Thiền vì bớt đi cái tự hào và ý niệm. Phật gọi Nhị Thiền là “định sinh hỷ lạc”, có nghĩa là niềm vui của Nhị Thiền hoàn toàn an ổn trong Định mà có. Trong đời sống hành giả không còn ham thích trình bày phô trương, và rất hiền lành, khiêm tốn. Phật gọi là “hết tầm hết tứ”.
        Lúc này hành giả thành tựu trí tuệ rất sắc bén nhanh nhạy, kiến giải Phật pháp là bất tận vô ngại, không ai có thể hỏi vặn vẹo được, việc gì nhìn thoáng qua là biết rõ, ngồi thiền rất lâu mà không bị đau mỏi chân, buồn ngủ, thường biết trước giờ chết.
        Nếu đừng bị tà kiến xâm nhập (quan niệm hay nhận thức sai lầm về sự thật, không dựa trên lý duyên khởi, lý nhân quả, lý vô thường và lý vô ngã) thì đường giải thoát của người đạt Nhị thiền là chắc chắn. Nếu bị tà kiến, lầm cho mình là viên mãn, tưởng rằng mình đã “kiến tánh thành Phật”, thì hành giả hưởng hết phước kiếp này qua kiếp sau sẽ bị thoái đọa lui sụt xuống mức độ thấp hơn nhiều.
        Gai đoạn nầy tương ưng với Niệm Thọ trong thiền Tứ Niệm Xứ (xem bài PHƯƠNG PHÁP NGỒI THIỀN của Nguyên Chương đã xuất bản).

3.   Tam thiền
         Được Phật diễn tả toàn thân như một bông hoa sen đang vươn lên từ trong nước, được nước bao phủ với nội tâm là “xả niệm lạc trú” (dứt bỏ ý niệm, thường xuyên an lạc).
        Niềm vui của Tam thiền rất đằm thắm nhỏ nhiệm và đầy khắp, giống như hoa sen ngập trong nước, tẩm ướt, tràn ngập, nhưng không thấm nước. Cũng vậy, niềm vui của Tam thiền rất tự tại, bình an và vượt khỏi cơ thể, giống như cả không gian đều cùng an vui vậy. Thân của hành giả lúc này giống như một khối không khí hân hoan an lạc (tức thân lúc nầy hoàn toàn trở nên vô hình tướng).
        Ý nghĩa của xả niệm là hành giả đã làm chủ được Vô thức (theo khoa học, Vô thức chiếm hơn 90% cuộc sống của con người, ý thức chỉ chiếm phần nhỏ). Kiểm soát được vô thức là tâm hồn đã thật sự ổn định. Những bản năng sinh tồn, bản năng hưởng thụ... sẽ không còn sinh khởi, hoặc nếu sinh khởi đều bị kiềm chế.
          Lúc này khi ngồi thiền nhập định, hành giả không còn nghe thấy mọi cảnh vật, tiếng động bên ngoài, hoàn toàn an trú vững chắc trong thế giới nội tâm sáng suốt vi diệu thanh tịnh của mình.
        Giai đoạn nầy tương ưng với Niệm Tâm của thiền Tứ Niệm Xứ.

4.   Tứ thiền
               Là mức thiền cuối cùng của các bậc thiền Sắc giới. Phật diễn tả đó là trạng thái “xả niệm, thanh tịnh, không lạc, không khổ”. Trong con người ta, Vô thức đảm nhận việc điều khiển hệ hô hấp, tiêu hóa, các tuyến nội tiết... những thứ mà ta không chủ động điều khiển được. Làm chủ được Vô thức nghĩa là có thể dừng được hơi thở, dừng mọi sự sống, nhập định vài trăm năm rồi xuất định, sống bình thường, sống tiếp cái tuổi ngày xưa khi mình rời thân (Trường hợp nầy là của các bậc cao tăng ẩn tu trên rừng cao núi thẵm, xa lánh cõi trần, như ở Tây Tạng chẳng hạn.  Khi muốn thực hiện điều nầy các vị tự lấp cửa động lại, dấu thân không cho chúng sanh biết – NC). Còn Ý thức thì liên quan tới các Giác quan, làm chủ được Ý thức sẽ khai mở những khả năng của giác quan như thiên nhãn thôngthiên nhĩ thông.
              Sự thoải mái, yên bình, an lạc, hạnh phúc của Sơ Thiền thậm chí còn trở nên "bất an" so với sự hạnh phúc, thoải mái của Tứ thiền. Bởi ở Tứ Thiền, hành giả đã thành tựu được tâm Xả.
        Giai đoạn này tương ưng với Niệm Pháp trong thiền Tứ Niệm Xứ.
       
        Trên đây là bốn bước tiến bộ của pháp thiền định theo pháp Thiền Tứ Niệm Xứ được diễn giải rất rõ ràng, cụ thể và thực tế. Nếu nhẫn nhục và tinh tấn tu tập, chắc chắn hành giã sẽ đạt được như ý nguyện.
        Mong rằng bài viết nầy sẽ bổ sung hữu ích cho quý hành giã đang hành thiền theo Thiền Tứ Niệm Xứ, chánh pháp của Bồn sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

Tham thiền nhập định khó chi
Nương theo hơi thở ta đi về nhà.

        Xin chân thành hồi hướng mọi thành tựu có được đến quý hành giã.

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ Tát ma ha tát.

                                                                Phú Ninh – Quảng Nam
                                                                             Mùa an cư PL.2.561
                                                                                (tháng 6-2017)
                                                                     THÍCH NGUYÊN CHƯƠNG

*****
***
*

Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017






NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT


Kinh
MỪNG
PHẬT ĐẢN


TỊNH THẤT NGUYÊN CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An,  Xã Tam Dân, huyện Phú Ninh,
tỉnh Quảng Nam



Thắp 3 cây hương, hai tay cầm hương ngang trán,
quỳ ngay thẳng trước bàn thờ, xướng :

DÂNG HƯƠNG
Nguyện mây hương hoa nầy,
Biến khắp mười phương cõi,
Tất cả các Phật độ,
Vô lượng hương trang nghiêm,
Đầy đủ Bồ Tát Đạo,
Thành tựu hương Như Lai.
Nam mô hương cúng dường Bồ Tát,
Nam mô hương cúng dường Bồ Tát,
Nam mô hương cúng dường Bồ Tát
ma ha tát.  (cắm hương, 1 lạy)

ĐẢNH LỄ
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật  (1 lạy)
Nam mô Dược sư Lưu ly Quang Vương Phật  (1 lạy)
Nam mô Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật (1 lạy)
Nam mô Quán Tự Tại Vương Bồ Tát  (1 lạy)
Nam môĐại bi Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lạy)
Nam mô Đại Thế Chi Bồ Tát (1 lạy)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát  (1 l ạy)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (1 lạy)
Nam mô Thập phương pháp giới nhứt thiết
Tam thừa Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
Nam mô Thiên Long Bát Bộ hộ giáo hộ giới
chư vị Thiện Thần (1 lạy)

KINH MỪNG PHẬT ĐẢN
Đệ tử hôm nay
Gặp ngày Khánh Đản
Một dạ vui mừng
Cúi đầu đảnh lễ
Thập phương Tam Thế
Cùng Thánh hiền Tăng
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Bỡi thiếu nhơn lành
Thảy đều sa đoạ
Tham sân chấp ngã
Quên hẵn đường về
Tình ái si mê
Tù trong lục đạo
Trăm dây phiền não
Nghiệp báo không cùng
Nay nhờ Phật Tổ năng nhân
Dũ lòng lân mẫn
Không nở để sinh linh thiếu phước
Nặng kiếp luân hồi
Đêm dài tăm tối
Đuốc tuệ rạng soi
Nguyện cứu muôn loài
Pháp dùng phương tiện
Ta bà thị hiện
Thích chủng thọ sanh
Thánh Ma-Da mộng ứng điềm lành
Vua Tịnh Phạn hước sanh con thảo
Ba mươi hai tướng tốt
Vừa mười chín tuổi xuân
Lòng từ ái cực nhuần
Chí xuất trần quá mạnh
Ngai vàng quyết tránh
Tìm lối xuất gia
Sáu năm khổ hạnh rừng già
Bảy thất nghiêm tinh thiền toạ
Chứng thành đạo quả
Hàng phục ma binh
Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghinh
Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ
Chúng con nguyền dứt bỏ
Dục tình ngoan cố
Học đức tánh quang minh
Cúi xin Phật tổ giám thành
Từ bi gia hộ
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Chóng thành đạo quả.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
(tụng 21 lần hay càng nhiều càng tốt - 3 lạy)

BÁT NHÃ TÂM KINH
    Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.

        Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
        Xá-Lợi tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
        Xá-Lợi tử ! Thị chư pháp không tướng : bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức ; vô nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý ; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới ; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận ; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
        Bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cổ, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri bát nhã ba la mật đa. Thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẵng đẵng chú, năng trừ nhất thiết khổ chơn thiệt bất hư.
        Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết :

YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT DẾ, BA LA TẰNG YẾT ĐẾ BỒ ĐỀ, TA BÀ HA.
(3 lần hay nhiều hơn càng tốt  – 3 lạy)

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN
Li bà li bà đế
Cầu ha cầu ha đế
Đà ra ni đế
Ni ha ra đế
Tì ni lễ đế
Ma ha già đế
Chơn lăng càn đế
Ta bà ha.   (1 lạy)

CÚNG THỊ THỰC
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỉ
Thế gian sở hứu ngã tận kiến
Nhứt thiết vô hữu như Phật giã

Nam mô Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật (3 lần)
Nam mô thường trụ thập phương Phật
Nam mô thường trụ thập phương Pháp
Nam mô thường trụ thập phương Tăng
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật
Nam mô đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật
Nam mô thập phương Tam thế nhứt thiết chưPhật
Nam mô Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Địa tạng Vương Bồ Tát
Nam mô Hộ pháp chư tôn Bồ Tát
Nam mô Già Lam Thánh chúng Bồ Tát
Nam mô Giám Trai sứ giã Bồ Tát
Nam mô Thập điện minh vương Bồ Tát
Nam mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
Nam mô Phật mẫu Đại Chuẩn Đề vương Bồ Tát
Nam mô Đạo tràng hội thượng Phật Bồ Tát.
(biến thực)
Nam mô tát phạ đát tha nghiệt đa, phạ lô chí đế, úm tam bạt ra tam bạt ra hồng. (7 lần)
(biến thuỷ)
Nam mô tô rô bà gia, đát tha nga đa đa da, đát điệt tha. Úm tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (7 lần)

Thử thực sắc hương vị
Thượng cúng thập phương Phật
Trung phụng chư hiền thánh
Hạ cập lục đạo phẩm
Đẳng cúng vô sai biệt
Tuỳ nguyện giai bảo mãn
Linh kim thí giã
Đắc vô lượng ba la mật
Tam đức lục vị
Cúng Phật, cập Tăng
Pháp giới hữu tình
Phổ đồng cúng dường
Úm nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng
(7 lần)

TÁN PHỔ CÚNG DƯỜNG
Ngã kim phụng hiến cam lồ vị
Lượng đẳng tu di vô quá thượng
Sắc, hương, mỹ, vị biến hư không
Duy nguyện từ bi ai nạp thọ.

Nam mô phổ cúng dường Bồ Tát
(3 lần hay nhiều hơn càng tốt  – 1 lạy)
Tứ sanh hữu cửu đồng đăng hoa tạng huyền môn
Bát nạn, tam đồ cộng nhập Tì Lô tánh hải
Cúng Phật dĩ ngật
Đương  nguyện chúng sanh
Sở tác giai biện
Cụ chư Phật pháp.

PHỤC NGUYỆN
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Dữ ngã đẳng chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-Tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-Tát vị bạn lữ.  (1 lạy)

TAM TỰ QUY Y
(Niệm)
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông ví chẳng nào bằng
Lười đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật Bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tạo thân chúng con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y (1 xá)

(TỤNG)
Tự quy y Phật
Đương nguyện chúng sanh
Thể giải đại đạo
Phát vô thượng tâm.  (1 lạy)

Tự quy y Pháp
Đương nguyện chúng sanh
Thâm nhập kinh tạng
Trí huệ như hải.  (1 lạy)

Tự quy y Tăng
Đương nguyện chúng sanh
Thống lý đại chúng
Nhứt thiết vô ngại.  (1 l ạy)

HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo.
(3 lạy)

*** Tất lễ ***