Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016




TƯỞNG NHỚ ÂN SƯ

Chuyện về một liệt sĩ là nhà sư :

Đại đức Pháp sư Thích Giác Lượng

11:27 17/05/2008 (báo Công An Nhân Dân)

        Khi Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc - Vesak 2008 chính thức diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 13 đến 17/5/2008 với chủ đề "Phật giáo và xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", chúng tôi đã tìm đến Hồ-Sơn-Cổ-Tự, một ngôi chùa có bề dày lịch sử trên 300 năm tọa lạc ở khu phố Ninh Tịnh 2, phường 9, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Nơi ấy cách đây gần nửa thế kỷ có một nhà sư yêu nước tu hành rồi thoát ly đi làm cách mạng và đã hy sinh.

      Hồ Sơn Cổ Tự (ở Phú Yên) - nơi Đại đức Thích Giác Lượng
                            đã tu hành (Ảnh: PTHT).

        Biết có khách đến, Thượng tọa Thích Nguyên Đức, nhà sư đang trụ trì ngôi chùa này bước ra chào. Ông kể: “Theo sách Kiến trúc Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Bá Lăng do Viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn - 1972, thì Hồ Sơn Cổ Tự đã hình thành hơn 300 năm. Tính đến nay đã có 17 lượt nhà sư nối tiếp nhau trụ trì ngôi chùa này".
        Đưa tôi vào gian phòng tiếp đón khách, Thượng tọa Thích Nguyên Đức dừng lại trước một bức di ảnh đen trắng treo trên tường, ông giới thiệu bằng niềm tự hào: "Đây là Đại đức Thích Giác Lượng, một nhà sư tiền bối và cũng là liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông có tục danh là Ngô Sáu, quê quán ở thôn Phú Nhiêu, xã Hòa Mỹ Đông, huyện Tuy Hòa - nay là huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên".
        Qua tìm hiểu chúng tôi được biết sau cách mạng tháng 8-1945, người thanh niên dân quê Ngô Sáu theo học tại Trường Trung học Lương Văn Chánh, nhưng sau đó phải rời trường trở về quê nhà do cuộc sống người dân ở vựa lúa Tuy Hòa rơi vào tình cảnh khó khăn vì công trình thủy lợi Đồng Cam bị giặc Pháp phá hoại, không có nước tưới để sản xuất lúa và hoa màu. Cơ duyên đã đưa ông Ngô Sáu đến với cửa Phật khi vị Hòa thượng Thích Hưng Từ, trụ trì chùa Phổ Độ đưa về nuôi. Ở đó, ông tiếp tục được học văn hóa và giáo lý nhà Phật.
        Sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ đã mở nhiều cuộc đàn áp Phật giáo, nhưng với sự giúp đỡ của các nhà sư, ông Ngô Sáu bước vào Trường Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn.
        Sinh viên Ngô Sáu không chỉ được truyền đạt kiến thức về giáo lý Phật pháp, mà còn được các bậc thiền sư, nhân sĩ trí thức và phật tử lúc đó giáo dục lòng yêu nước, thương dân, căm thù giặc ngoại xâm và tay sai bán nước. Chính vì vậy ông Ngô Sáu là một trong những sinh viên miền Nam tham gia xuống đường đấu tranh chống chế độ áp bức của Mỹ Diệm.
        Khi trở về Phú Yên, ông Ngô Sáu tu hành ở Hồ Sơn Cổ Tự với pháp danh Thích Giác Lượng. Sau một thời gian dài được đạo hữu tin yêu quý mến, ông được công nhận là Đại đức. Theo sự động viên của một số phật tử trong những gia đình giàu truyền thống cách mạng, Đại đức Thích Giác Lượng ra xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phát nguyện lập chùa An Hòa. Chính quyền xã và đám Cảnh sát quốc gia thấy đông đảo đồng bào ngưỡng mộ nhà sư, tìm đến chùa đọc kinh cầu nguyện và nghe Đại đức lấy việc đời để hướng đạo cho phật tử nhận diện đâu là chánh, đâu là tà từ những hành động ngang ngược của chính quyền và những kẻ ác ôn, nợ máu cách mạng và nhân dân. Chính vì vậy địch đã đặt chùa An Hòa vào tầm ngắm, nhưng đạo hữu vẫn tìm đến ngày càng đông.
        Năm 1964, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng khu Trung Trung Bộ mời Đại đức Thích Giác Lượng tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cũng từ thời điểm này, Đại đức rời chùa An Hòa thoát ly lên chiến khu, lần lượt được tín nhiệm bầu chọn làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng, rồi Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng khu Trung Trung Bộ.
        Khi có người hỏi về chuyện Đại đức thoát ly, ông nói rằng: "Tôi đi làm cách mạng là vì đời, mà cũng là vì đạo. Khi cách mạng thắng lợi, đất nước độc lập thống nhất, tôi sẽ trở về với đạo mà không có gì phải hổ thẹn".
        Trong những chuyến đi thuyết pháp tại nhiều vùng quê ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đại đức Thích Giác Lượng đã tranh thủ vận động chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tuyên truyền chủ trương của mặt trận giải phóng, kêu gọi con em binh lính chế độ Sài Gòn làm điều lành, tránh điều ác. Trong suốt thời gian hơn ba năm ở chiến khu, Đại đức đã giảng giải cho hàng ngàn người dân ủng hộ mặt trận giải phóng, những người từng nghe Đại đức thuyết pháp đều kính trọng, quý mến ông.
        Khi chiến dịch Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân Mậu Thân - 1968 đang trong giai đoạn chuẩn bị, chiến trường khu Trung Trung Bộ diễn ra ác liệt, nên Khu ủy Khu 5 điều động các vị nhân sĩ, cán bộ đang tiếp cận vùng đồng bằng về lại căn cứ ở rừng Trường Sơn. Thực hiện mệnh lệnh đó, Đại đức Thích Giác Lượng từ huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi theo đường rừng sang căn cứ T4 ở miền Tây huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam.

        Vừa đến trạm liên lạc căn cứ vào đêm 15/11/1967 thì bị máy bay địch ném bom, khiến cho Đại đức Thích Giác Lượng hy sinh khi mới 35 tuổi. Thi hài ông được chôn cất ở miền núi Trà My, mãi đến giữa năm 1997, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Phú Yên mới tổ chức đưa hài cốt của liệt sĩ Ngô Sáu, tức Đại đức Thích Giác Lượng về quê nhà và cải táng ở Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Phú Yên ở phường Phú Thạnh, TP Tuy Hòa. Hai người anh trai của Đại đức từng thoát ly tham gia hai cuộc kháng chiến và đã hy sinh.
        Với ba người con là liệt sĩ, người mẹ của Đại đức Thích Giác Lượng dù đã đi xa, nhưng vẫn được Chủ tịch nước truy phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Tấm gương yêu nước, một lòng phụng sự Tổ quốc và nhân dân, tận tâm, tận lực vì đạo và đời của Đại đức Thích Giác Lượng thật đáng trân trọng.
                                                                                    Phan Thế Hữu Toàn
                                                                                               (Báo Công an nhân dân)

Di ảnh Liệt sĩ Đại đức Pháp sư THÍCH GIÁC LƯỢNG
Nguyên Chương chụp năm 1963 tại chùa An Hòa của Thầy ở Bình Định.

        Tình cờ lên mạng đọc được bài viết trên, NGUYÊN CHƯƠNG bùi ngùi chạnh nhớ Thầy,  vị ân sư khả kính, nên xin viết tiếp :
        Tôi có duyên lớn được gần gũi Đại đức Thích Giác Lượng từ năm 1960, năm tôi 18 tuổi, khi nghe Thầy thuyết pháp tại chùa Tỉnh hội (chùa Pháp Lâm) đường Ông Ích Khiêm Đà Nẵng, nhà tôi ở gần đó. Thầy đẹp tinh tấn, nét cười rất có duyên, thuyết pháp rất hay. Mỗi lần nghe tin Thầy thuyết pháp ở đâu là Phật tử khắp nơi đến nghe rất đông. Thầy thường nhanh trí trả lời những câu hỏi hóc búa của ngoại đạo rất hay, tôi nhớ nhưng không tiện kể ra đây.
        Thấy tôi đứng gần, Thầy gọi tôi đến nói chuyện rồi nhận tôi làm đệ tử. Khi nghe tôi tâm sự với Thầy là tôi mồ côi, không rõ cha mẹ ở đâu, được cha mẹ nuôi đem về nuôi nấng từ khi mới sinh 15 ngày, tôi chỉ biết mình sinh ở Đà Nẵng thôi. Thầy ôm tôi vào lòng trìu mến hôn lên trán và an ủi, tôi khóc òa lên. Từ đó tôi xem Thầy là ân sư của tôi. Những ngày nghỉ học, Thầy bảo tôi theo hầu Thầy đi hoằng pháp ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế. Kỳ nghỉ hè, tôi được Thầy dẫn về thăm chùa An Hòa của Thầy ở huyện Phù Mỹ (lúc đó tôi gọi là làng), tỉnh Bình Định, chùa nằm trên một ngọn đồi thấp có nhiều cây Râm Bụt, nhìn thấy tháp Chàm cao ở xa xa. Tôi có chụp cho Thầy một tấm hình cảnh Thầy đứng trước vườn chùa rất đẹp và đầy nhân duyên. Từ góc ảnh chụp tôi chọn nơi thân cây Thầy đứng lõm vào phía trên đầu Thầy giống như hào quang từ Thầy tỏa ra. Thầy xem rất thích thú, nói tôi có khiếu chụp ảnh, tôi vẫn còn giữ phim ảnh đến bây giờ.
        Những khi thầy trò ngồi riêng với nhau, ngoài việc dạy Phật pháp, Thầy hay nói với tôi về Mặt trận giải phóng Miền Nam, về Bác Hồ. Tôi khoe với Thầy hồi nhỏ ở trong quê cha mẹ nuôi, tôi làm đội trưởng Nhi đồng cứu quốc thôn, những đêm có trăng thường hay rủ nhau tập đánh trận giã, chia ra hai phe địch và ta đánh nhau, khi nào phe ta cũng thắng,  rất vui. Thầy ôm tôi cười rất hiền hòa thoải mái.
        Khoảng năm 1962 hay 1963 gì đó, Thầy nhắn tôi vào chùa An Hòa đi với Thầy vào nhà lao Qui Nhơn thăm một người bạn. Tôi mang nãi đứng ngoài chờ. Khi ra về Thầy cười nói với tôi :
        - Thầy đố Cơ, bác Ba Nhơn nhờ Thầy nói lại với vợ bác là không được tái giá, ở vậy chờ bác về. Nếu tái giá bác sẽ tự tử trong tù. Là ý nói gì ?
        Tôi cười thưa với Thầy :
        - Nghe Thầy nói vợ bác già và xấu thậm tệ thì tái giá chi được nữa…
        Thầy mĩm cười rồi nói :
        - Thôi quên chuyện đó đi, sau nầy con sẽ biết.
        Tôi quên luôn, không còn hỏi lại Thầy nữa.
        Năm 1964 Thầy từ chùa An Hòa được mời ra chứng minh lễ an vị tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lộ thiên tại chùa Bát Nhã đường Triệu Nữ Vương Đà Nẵng vào hai ngày 18 và 19 tháng 2 âm lịch năm 1964, chùa lúc đó do cố Đại đức Thích Đồng Chơn trụ trì, cố Đại đức rất quen thân với cha nuôi của tôi. Buổi tối sau khi thuyết pháp xong, thầy trò ở lại chùa suốt đêm tâm sự. Tôi nói thật hết với Thầy :
        - Bạch Thầy, con tìm hiểu được biết, mẹ con là người Tàu, cơ sở cách mạng Việt Minh, chết ở Sài Gòn năm 1951 không biết mộ chôn ở đâu, ba con thì từ chiến khu Cà Mau ở Nam Bộ tập kết ra Bắc năm 1954 không rõ tung tích ra sao, ông tên là Lê Khắc Diệm, là thư ký riêng của giáo sư Trần Văn Giàu chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam bộ, khi Nam bộ khởi nghĩa ông mang máy truyền tin cùng với ông Giàu từ Sài Gòn ra chiến khu. Nhân duyên lớn như một huyền thoại, con tìm lại được một người anh ruột năm 1949 cũng làm con nuôi trong một gia đình ở cùng quê với con, và một người chị ruột năm 1959 làm con nuôi trong một gia đình giàu có ở Sài Gòn. Nói rồi tôi khóc sướt mướt.
        Thầy ôm tôi vào lòng an ủi và hôn tôi thật thắm thiết. Im lặng một lúc Thầy nói :
        - Có lẻ Thầy phải đi vào bưng thôi con ạ, vì bị theo dõi dữ quá. Có điều kiện Thầy sẽ liên lạc tìm ba con rồi đưa con ra Bắc để cha con sẽ trùng phùng. Hòa bình lập lại rồi, thầy trò ta sẽ tìm nơi bìa rừng thanh vắng có suối nước trong róc rách, làm một cái am tranh sống cuộc đời thầy tu nông dân, ngày ngày thầy trò ra đồng làm ruộng, tối về am kinh kệ. Cơ thích không ?
        Nghe Thầy nói thế, tôi bật khóc nho nhỏ, rồi thưa :
        - Bạch Thầy, con rất thích ở những nơi như rứa…
        Thế là tôi không còn có Thầy ở gần nữa để có chỗ nương tựa tinh thần. Sau đó Thầy vào Sài Gòn, viết cho tôi lá thư cuối cùng vào ngày 11-6-1964 rồi đi vào bưng không biết khi nào. Những ngày tháng Thầy còn ở Bình Định và Sài Gòn trước đó, Thầy hay viết cho tôi nhiều thư an ủi động viên, Thầy làm thơ cũng rất hay và có gởi cho tôi một tập mỏng viết tay. Khi Thầy đi vào bưng rồi, tôi sợ quá đốt hết, chỉ còn giấu kỹ để lại mấy kỷ vật : lá thư cuối cùng, hai quyển sách “Thử đặt một hướng đi” và “Đời sống với tinh thần của Đức Phật” do Thầy viết, hai tấm phim ảnh của Thầy (tôi xẻ bìa tự điển nhét vào), một bao gối và một tấm khăn trải bàn Thầy thêu rất đẹp. Sau ngày giải phóng tôi có sang lại một tấm ảnh của Thầy và nhờ người quen chuyển cho sư cô Thích Nữ Diệu Thuận là em ruột của Thầy, chùa ở Long Khánh để thờ. Ở Đà Nẵng có anh Nhung phường Hải Châu 2, một Phật tử rất kính ngưỡng Thầy, anh thuộc rất nhiều thơ Thầy làm, hứa sẽ chép lại cho tôi, nhưng rồi anh đột ngột qua đời do bị tai biến.
        Trong lá thư cuối cùng có mấy câu Thầy viết, tôi ghi tâm suốt đời :
“Cơ ơi !
Kiếp nhân sinh mấy lúc được vừa lòng,
Tìm sự sống chết dần trong sự sống…
        …Thầy không khuyên Cơ bớt suy nghĩ bớt buồn, vì chính con người hơn sinh vật là ở  chỗ đó.”
        Khi Thầy ở Sài Gòn, thầy trò thường liên lạc thư từ với nhau theo địa chỉ ở số nhà 160 Bến Chương Dương Sài Gòn. Sau ngày giải phóng tôi có đến tìm nhưng không có ai biết, hay có thể biết mà họ ngại không nói. Nay thì ở đó đã thay đổi khá nhiều rồi.

        Khoảng đầu năm 1968, chị Nguyễn Thị Uyên Thâm là cơ sở của Thầy tìm đến tôi, báo tin ngắn gọn Thầy đã hy sinh ở Tây Nguyên cuối năm 1967. Tôi đã khóc rất nhiều. Chị Uyên Thâm, thường gọi là chị Quyến, lúc đó dạy học tại trường tiểu học ở ngã tư Cẩm Lệ, Hòa Vang, Quảng Nam, nay là quận Cẩm Lệ Đà Nẵng. Chị có chân trong Hội nhà giáo yêu nước Quảng Đà cùng với nhà thơ Đông Trình (tức nhà giáo Nguyễn Đình Trọng dạy trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng). Chị nói trước khi lên chiến khu Thầy có gởi gắm tôi cho chị, nhưng khó liên lạc quá nên không gặp được. Tôi có hỏi chị về chuyện bác Ba Nhơn ở Bình Định mà Thầy đã kể, chị nói :
        - Bác Ba Nhơn là nhà cách mạng lớn, bị cụt một tay, bị địch bắt, Mặt trận muốn đổi bác để thả mấy tù binh Mỹ nhưng bác không chịu, sau đó bác bị đày ra Côn Đảo. Ý Thầy đố Cơ là mật ngữ đó.
       Tôi chợt hiểu ra ý bác Ba Nhơn muốn nói là bác không đồng ý cho cách mạng trao đổi tù binh.
        Sau ngày giải phóng chị có ghé thăm tôi mấy lần rồi mất liên lạc cho đến nay. Nghe nói chồng chị ở Bắc về đưa chị vô Nam sống. Còn tôi cũng đã thay đổi chỗ ở từ năm 1989.
      Sau ngày giải phóng tôi nhận được thêm chi tiết từ bà Phụng Ký, tức Photo Phụng Ký, ở đường Hùng Vương Đà nẵng. Bà là một trong những nhà cách mạng nữ đầu tiên ở Đà Nẵng. Bà kể : mẹ tôi lúc đó là cơ sở cách mạng lớn ở Đà Nẵng, mở trường dạy thêu đan hiệu là Dục Thanh ở bên hông nhà thờ lớn (Tức bót Con Gà) để làm nơi liên lạc. Khoảng năm 1936 ba tôi từ Thanh Hóa vào Đà Nẵng được cách mạng cài vào cơ sở Bưu điện miền Trung của Pháp ở đường Trần Quốc Toản Đà Nẵng, lúc đó gọi là "Dây thép bay miền Trung", để lấy tài liệu của địch chuyển về trung ương, nên đã gặp và kết hôn với mẹ tôi. Tôi đưa tấm ảnh mẹ tôi chụp chung với mấy người bạn, bà xem thấy một người là thủ trưởng của bà đã hy sinh nên rất mừng. Bà có chụp sang lại một tấm để thờ. Bà kể rõ cho tôi biết từng người trong ảnh đều là cơ sở của mẹ tôi.
       Tôi cũng xin nói rõ, mặc dù mối quan hệ sâu sắc với Thầy như vậy, nhưng chưa một lần Thầy bảo tôi tham gia cách mạng, và tôi cũng chẳng có ý muốn gì về việc nầy, tâm tôi chỉ nghĩ đến chuyện tu hành. 
        Tôi nghe nói Thầy có một người anh trai là thiếu tướng trong QĐNDVN thời kháng chiến chống Pháp tên là Ngô Văn Nhựt.
        Năm 1976 ba tôi từ Hà Nội vào Đà Nẵng tìm lại được ba anh em tôi cũng là một câu chuyện như huyền thoại, có lẻ ơn trên đã sắp đặt cho chúng tôi trùng phùng như lời Thầy đã mong ước.
        Từ đó đến nay, và suốt phần đời còn lại, trong lòng tôi luôn ấp ủ hình ảnh hiền từ nhân hậu của Thầy. Sau mấy mươi năm tu tại gia, tôi xuất gia ẩn tu cũng từ nhân duyên và ước nguyện anh linh Thầy đã truyền lại cho tôi.

        - "Kính bạch hương linh Thầy, con viết những dòng nầy mà nước mắt con tuôn trào không ngớt Thầy ơi !... Con nhớ Thầy và nhớ suốt đời… Lòng yêu nước, tâm kính ngưỡng Đạo, sự ân cần với đời, lời nói từ tốn nhẹ nhàng cuốn hút người nghe, nụ cười đẹp hiền hậu của Thầy luôn hiện hữu động viên con trên đường tinh tấn tu hành !…"

Nam mô tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật,
Nam mô Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát,
Nam mô Hương vân cái Bồ Tát ma ha tát.
                                                                                            
                                                                                      Bình Dương, tháng 8-2015
                                                                                                Thích Nguyên Chương
                                                 
HÌNH ẢNH MỘT SỐ KỶ VẬT CỦA THẦY

 Bao gối và khăn bàn Thầy thêu tặng NC

 Lá thư cuối cùng Thầy viết gởi NC

 Quyển sách Thầy viết về đạo Phật

Quyển sách Thầy viết giáo dục thanh niên

*****
**
*


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét