Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015





BỒ-TÁT
QUÁN-THẾ-ÂM
Thân nam hay nữ ?

Nguyên Chương 
cẩn soạn

NIỆM PHẬT ĐƯỜNG LIÊN TRÌ
KP Phú Hòa, phường Hòa Lợi, TX Bến Cát,
TP Bình Dương, tỉnh Bình Dương
ấn tống



NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT.
        Đi một vòng khắp đất nước, gần như tất cả các chùa Phật giáo ở Việt Nam đều có thờ tượng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát lộ thiên thân nữ rất tôn nghiêm. Kể cả phần lớn các nhà thờ, tịnh thất, các miếu thờ thánh thần trong nhân dân, trong mỗi gia đình Phật tử cũng thờ tượng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thân nữ. Đó là đặc điểm của Phật giáo Việt Nam và đạo thờ cúng ông bà chúng ta.
        Vì sao có sự kỳ diệu và lý thú như vậy ? Vì sao không thờ Bồ-Tát hình tượng nam mà là nữ ?
        Để tham gia cùng quý Phật tử vào lĩnh vực tìm hiểu xem Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là thân nam hay nữ, chúng ta mạn phép đi sâu một chút vào kinh điển của Phật dạy.
        Trong kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, phẩm Phổ-Môn, đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni khi thuyết pháp gọi Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là “Thiện nam tử”.
        Trong kinh Đại-Nhật, đức Bổn-sư nói Bồ-Tát Quán-Thế-Âm từ kiếp xa xưa là một vị Phật, sau phát nguyện hiện thân Bồ-Tát để cứu độ chúng sanh thoát khỏi bể khổ trầm luân. Đã là Phật thì phải là thân nam.
        Trong kinh Bi-Hoa, đức Bổn sư dạy rằng : Về thời quá khứ, ngài Quán-Thế-Âm nguyên là thái tử con vua Vô-Tránh-Niệm. Lúc bấy giờ có Đức Bảo-Tạng Như-Lai ra đời giáo hóa chúng sanh. Sau vua và thái tử ngộ đạo xuất gia. Vua Vô-Tránh-Niệm thành Phật pháp danh là Bảo Pháp Như Lai, làm giáo chủ cõi Cực-lạc, lấy hiệu là A-Di-Đà. Thái tử công hạnh trọn đủ, cũng sanh về cõi ấy thành Bồ-tát Quán-Thế-Âm. Ngoài việc thường trợ hoá cho Phật A-Di-Đà tiếp dẫn chúng sanh về Tây phương Cực-lạc, Ngài còn phát 12 đại bi nguyện cứu khổ, cứu nạn cho tất cả chúng sanh nếu họ thành tâm niệm danh hiệu của Ngài (theo báo Giác Ngộ)
        Tại các nước gốc Phật như Ấn-Độ, Nepal, I-srilanca,… đều thờ hình tượng Quán-Thế-Âm là thân nam. Trung Quốc là nơi phát sinh ra nhiều hình tượng Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là nữ, trong khi đó có một số chùa ở miền Bắc cũng thờ Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là thân nam.
        Theo phong tục phong kiến thời xưa bên Trung Quốc, nữ giới thường không được đến những nơi thờ phụng trang nghiêm, nếu có đến cũng chỉ được quanh quẩn ở ngoài sân, vườn. Các vị Tổ nhận thấy nữ giới quá đông mà không có nơi trang nghiêm để họ lễ bái, nên vào đời nhà Hán, tương truyền có Bồ-Tát Quán-Thế-Âm thị hiện ở núi Ngũ-Đài-Sơn thuyết pháp, các Ngài đã cùng nhất trí rằng nhìn thấy Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là nữ. Từ đó hình tượng Bồ-Tát Quán-Thế-Âm được khắc dựng ở khắp các sân chùa với thân nữ để Phật tử nữ giới đến chiêm bái. Sau truyền sang các nước lân cận cũng làm theo như vậy.
        Cũng như sự tích ngày vía Phật A-Di-Đà : vào đời nhà Hán bên Trung Quốc, vua Việt Vương đến chùa Vĩnh-Minh hỏi Đại sư Diên-Thọ (thường gọi là Thiền sư Vĩnh-Minh, vì Ngài trụ trì chùa Vĩnh-Minh) là Tổ thứ sáu của Tịnh-Độ-Tông : “Hiện nay ngoài Đại sư ra còn có ai là bậc cao tăng không ?”. Đại sư Vĩnh-Minh trả lời : “Có Hòa thượng Hành-Tu có đôi tai dài là Phật Định-Quang ứng hóa thân đó”. Vua Việt Vương bèn đến đảnh lễ Đại sư Hành-Tu và thuật lại lời của Đại sư Vĩnh-Minh. Đại sư Hành-Tu nói : “Vĩnh-Minh Đại sư khéo bày chuyện, ông ta chính là Phật A-Di-Đà ứng hóa thân đó”. Nói rồi Ngài mĩm cười thị tịch. Vua Việt Vương hốt hoảng quay trở về chùa Vĩnh-Minh thì Đại sư Vĩnh-Minh cũng vừa viên tịch. Lúc đó là 10 giờ ngày 17 tháng 11 năm 975. Từ đó, người Trung Quốc lấy ngày 17 tháng 11 hằng năm làm ngày vía Phật A-Di-Đà, rồi truyền sang các nước lân cận. Chứ ở các nước gốc Phật hình như không có ngày nầy.
        Theo kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, phẩm Phổ-Môn, Đức Phật Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni đã thuyết Bồ-tát Quán-Thế-Âm có thần lực tự tại, có khả năng ứng hiện vô số thân để cứu độ chúng sanh. Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Huệ Đăng đã diễn nghĩa thơ đoạn nầy rất hay :
…Muốn cầu thân Phật độ dân
Quán Âm liền hiện Phật thân độ trì
Cõi muốn được Bích-Chi hóa độ
Hiện Bích-Chi vì đó giảng kinh
Muốn Thinh-văn đến độ sinh
Hiện Thinh-văn đến pháp lành tuyên dương
Cõi muốn được Phạm-vương hóa độ
Hiện Phạm-vương vì đó giảng kinh
Muốn cầu Đế-Thích giảng kinh
Hiện thân Đế-Thích pháp lành giảng phân
Muốn tự tại Thiên thân hóa độ
Hiện thân nầy vì đõ giảng kinh
Muốn Đại tự tại thân hình
Hiện Đại tự tại thuyết minh độ trần
Muốn hiện Đại tướng quân hóa độ
Hiện Tướng quân vì đó giảng kinh
Muốn Tì-sa đến độ sanh
Hiện Tì-sa đến pháp lành giảng phân
Muốn Tiểu vương dùng thân hóa độ
Hiện Tiểu vương vì đó giảng kinh
Muốn cầu Trưởng giả độ kinh
Hiện thân Trưởng giả thuyết trình lý chân
Muốn cư sĩ dùng thân hóa độ
Hiện thân nầy vì đó giảng phân
Cõi nào muốn bậc Tể quan
Hiện Tể quan đến luận bàn cao xa
Cõi muốn được Bà-la-môn độ
Hiện thân nầy vì đó giảng kinh
Muốn cầu tứ chúng độ kinh
Hiện thân tứ chúng thuyết minh luận bàn
Muốn phụ nữ của hàng trưởng giả
Bà-la-môn, cư sĩ, tể quan
Tức thì hiện phụ nữ thân
Tùy cơ nói pháp độ dân muôn ngàn
Cõi muốn được đồng nam hóa độ
Hiện đồng nam vì đó giảng kinh
Muốn cầu đồng nữ độ sinh
Hiện thân đồng nữ pháp lành giảng ra…

      Như vậy, không nhất thiết Ngài chỉ thị hiện nữ thân mà là vô số thân. Nhưng do niềm tin của các dân tộc vùng Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng thì hình ảnh Bồ-Tát Quán-Thế-Âm như người mẹ hiền, thương chúng sanh như con đỏ, thường che chở, gia hộ và tưới mát những tâm hồn khổ đau các con của Ngài, rất được quần chúng nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ. Vì vậy, tượng Ngài được thờ phụng khắp nơi đa phần là thân nữ. Khi một vị Bồ-Tát đã an trụ trong Pháp thân cố nhiên siêu việt danh sắc, vì thực tướng vốn là vô tướng. Do đó, không thể đặt vấn đề nam hay nữ đối với những vị đã thể nhập Pháp thân (theo báo Giác Ngộ)
        Như vậy ta thấy, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là thân nam, nhưng do Ngài đã thể nhập pháp thân nên có thể thị hiện thân nam hay nữ tùy ý. Nương theo đó, người Trung Quốc thời phong kiến đã tôn tượng Bồ-Tát Quán-Thế-Âm là thân nữ để Phật tử nữ giới được chiêm bái, với y phục quý phái của các nữ vương gia Trung Quốc, biểu hiện sự phồn vinh dưới triều đại nhà Hán. Tượng Bồ-Tát Quán-Thế-Âm thân nữ xuất hiện từ đó và truyền sang các nước lân cận.
        Trở về với truyền thống Việt Nam, chúng ta có sự tích  Quan-Âm Thị-Kính là một nữ Bồ-Tát. Tương truyền rằng, bà Thị-Kính tuổi tròn đôi tám, là con gái của một gia đình phú hộ nho giáo. Bà rất đẹp, tính tình hiền hậu, đoan chính, ai cũng quý trọng. Bà được gả cho một chàng thư sinh, sống với nhau  rất hạnh phúc.  Một hôm chồng ngủ,  bà nhìn thấy trên cằm có một sợi râu mọc ngược khó coi, bèn lấy kéo định cắt bỏ. Vừa lúc đó anh chồng giật mình thức giấc thấy tưởng vợ ám sát mình nên nắm chặt tay bà hô hoán ầm lên. Cả nhà chạy vào thấy Thị-Kính tay đang cầm cái kéo tưởng là thật. Tình ngay lý gian, cha mẹ chồng liền mời sui gia đến trả bà lại với tội muốn giết chồng.
         Chán cảnh đời oan trái, bà phát tâm xuất gia đi tu. Nhưng ngày xưa không có chùa Ni (dành cho nữ tu), nên bà giả nam thọ giới. Sư trụ trì chùa đặt cho bà pháp hiệu là Kỉnh-Tâm. Tưởng đâu việc đã ổn, nhưng vì bà là gái đẹp giả trai nên càng đẹp hơn, khiến bao nữ Phật tử mê mệt. Trong số đó có cô gái nhà giàu tên Thị-Mầu đem lòng thương yêu tơ tưởng. Thị gạ gẫm mãi mà không được, sẵn có tính lăng nhăng, thị đã lấy bậy một người nô bộc trong nhà đến có thai. Cha mẹ gạn hỏi mãi, cuối cùng sợ quá thị bèn khai đại chủ  nhân bào thai đó là thầy Kỉnh-Tâm. Gia đình báo quan bắt bà tra tấn dã man, sống chết nhiều phen. Nếu nói mình là nữ giả trai thì sẽ trắng án liền và bị đuổi ra khỏi chùa. Nhưng bà quyết tu nên cắn răng nhận tội. Sau đó bà được trả về chùa để sư phụ bà định tội theo pháp Phật. Bà bị cho ra ở riêng bên ngoài chùa để theo dõi.
        Chẳng bao lâu Thị-Mầu sinh con, ẳm tới giao cho thầy Kỉnh-Tâm rồi bỏ về. Trong hoàn cảnh trái oan đó, bà nghĩ nếu không nhận thì tội cho đứa bé, nếu nhận thì hóa ra chính nó là con của mình. Cuối cùng bà cam đảm chấp nhận bị nghi oan để nuôi đứa bé với tấm lòng thương của người mẹ. Bà bồng đứa bé đi ra làng xin sữa trong tiếng mắng chữi thậm tệ của dân làng. Khi đứa bé lớn khôn thì bà kiệt sức và bị bạo bệnh qua đời. Lúc tẩm liệm mới biết bà là gái giả trai đi tu. Dân làng cảm kích lòng từ bi và quyết tâm nhẫn nhục tu hành của bà nên lập đền thờ, tôn xưng bà là Quan-Âm Thị-Kính, hay Phật bà Quan-Âm.
        Việt Nam chúng ta còn có sự tích Quan-Âm Diệu-Thiện. Tương truyền bà là công chúa thứ ba của vua nước Ấn Độ ngày xưa. Khi ba công chúa trưởng thành, vua chọn phò mã, hai người chị đã vâng lệnh vua cha lấy chồng. Riêng công chúa Diệu-Thiện chỉ muốn đi tu chứ không chịu lấy chồng. Vua tức giận đuổi công chúa ra khỏi thành và cho vào tu ở một ngôi chùa, ra lệnh nhà chùa phải hành hạ khổ sở để công chúa không chịu nổi phải quay về triều đình. Nhưng công chúa vẫn cắn răng chịu đựng để quyết tu. Nhà vua tưởng nhà chùa nương tay nên nổi giận cho đốt chùa. Công chúa được cọp cứu thoát cỏng chạy qua đến Việt Nam, vào động Hương Tích công chúa ẩn tu đến đắt quả Phật.
        Một ngày nọ được tin vua cha lâm trọng bệnh, thầy thuốc bó tay. Công chúa Diệu-Thiện hay tin liền trở về chữa lành bệnh cho vua cha, rồi thuyết pháp giáo hóa cha mẹ cùng thần dân trong nước đều hiểu đạo mầu. Sau đó công chúa trở về động Hương Tích Việt Nam tu cho đến ngày nhập niết bàn. Nhân dân ta kính ngưỡng bà nên lập đền thờ tại động Hương Tích, tôn xưng bà là Phật bà Quan-Âm Diệu-Thiện, hay Bồ-Tát Quan-Âm Diệu-Thiện. Hiện nay tại động Hương Tích còn lưu lại nhiều thơ phú khắc trên đá ca tụng công đức của Quan-Âm Diệu-Thiện.
        Tóm lại, tìm hiểu trong kinh điển Phật dạy, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nguyên là thân nam. Nhưng đã thể nhập pháp thân nên Bồ Tát có thể ứng hiện được các thân nam hay nữ để cứu độ chúng sinh. Bồ-Tát phát 12 đại nguyện đại từ đại bi độ thế, Ngài ví như người mẹ hiền thương con không quản ngại gian lao khổ nhọc, nên nhân dân xem Ngài như một nữ Bồ-Tát. Theo sự tích dân gian, truyền thống dân tộc, Việt Nam chúng ta cũng có hai vị nữ Bồ-Tát Thị-Kính và Diệu-Thiện, nên chúng ta tôn tượng Bồ Tát là nữ cũng là lẻ đương nhiên.
        Điều quan trọng là khi thờ Bồ-Tát Quán Thế Âm thì phải học theo hạnh từ-bi-hỷ-xả, nhẫn nhục và tinh tấn của Ngài để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Cụ thể là phải tinh tấn làm ăn lương thiện, chuyên cần giữ năm giới cấm (ngũ giới), chăm làm việc thiện (bố thí, phóng sanh). Có như thế mới xứng đáng là đệ tử thuần thành của Ngài.
       Việc tìm hiểu lai lịch về Bồ-Tát Quán-Thế-Âm không sao tránh khỏi thiếu sót và thiển cận. Con cúi mong trên quý chư Tôn Đức hỷ xã chỉ vẻ thêm, và mong quý chư Thiện tri thức hoan hỷ bổ sung thêm tôn ý.

Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn quãng đại  linh cảm 
Bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát,
Nam mô thường tinh nhẫn Bồ-Tát,
Nam mô thường hoan hỷ Bồ Tát ma ha tát.

                                                   Bình Dương, tháng 06-2015
                                           NGUYÊN CHƯƠNG 
                                            cẩn soạn

Bìa sách (gợi ý)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét