10 HẠNH
PHỔ HIỀN
(Phổ Hiền thập hạnh)
trong đời sống hằng ngày
của người Phật tử
NGUYÊN
CHƯƠNG
Cẩn soạn
NIỆM PHẬT
ĐƯỜNG LIÊN TRÌ
KP Phú Hòa, phường Hòa Lợi,
TX Bến Cát
TP Bình Dương, tỉnh Bình
Dương
ấn tống
Mười hạnh Phổ-Hiền (Phổ-Hiền thập hạnh) là một trong ba phẩm quan trọng (phẩm Nhập pháp giới, phẩm Như Lai thị hiện,
phẩm Thập địa Bồ-Tát) trong 48 phẩm của kinh Hoa-Nghiêm. Kinh Hoa-Nghiêm
xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I Công nguyên, và phát triển rực rỡ vào thế kỷ
thứ II, cùng thời điểm phát triển của Phật giáo Đại thừa, là một trong bốn bộ
kinh lớn của Phật giáo Đại thừa (Bát-nhã,
Pháp-hoa, Niết-bàn, Hoa-nghiêm), được các học giả phương Tây xếp vào một
trong 20 thánh thư giá trị nhất phương Đông. Đến năm 643 kinh được truyền qua
Trung Quốc và được nhiều vị Tổ Trung Quốc dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ. Năm 1965, Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch ra Việt ngữ gồm 8 quyển. 10 Hạnh Phổ Hiền cũng được Đức Phật xiểng dương trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Đại đức Thích Chí Giác Châu nói : “Mười hạnh Phổ-Hiền là ngọn “vô tận đăng”
soi sáng cho nhân loại, đem lại nguồn hạnh phúc thiết thực cho mọi người, mọi nhà.
Người tu tập theo Phổ-Hiền hạnh nguyện là gắn liền với đời sống thực tại đầy
đau thương, bỡi vì nỗi đau của chúng sinh là nỗi đau của Bồ-Tát ; chúng sinh
khổ thì Bồ-Tát khổ, chúng sinh vui thì Bồ-Tát vui ; cũng giống như mẹ và con,
khi con bệnh thì mẹ cũng muốn bệnh theo. Đây là điều tất yếu như một hệ quả tự
nhiên. Sự tất yếu đó luôn hiện hữu trong tâm trạng Bồ-Tát như một bức thông
điệp bất hủ ngàn đời…”
“Phổ-Hiền
hạnh nguyện là cửa ngõ để hành giả thâm nhập vào thế giới Hoa-Nghiêm một cách
sâu sắc. Lời phát nguyện rộng lớn của Phổ-Hiền là tấm gương sáng, là thước đo
chuẩn mực cho những ai phát tâm thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát…”
Ông bà ta thường nói : “Chưa
xong Bồ-Tát muốn làm Thích-Ca”. Ý nói hạnh Bồ-Tát chưa hoàn thành mà đã
muốn thành Phật, chưa học xong cấp 3 mà muốn lên đại học thì làm sao được. Nói
một cách cụ thể, muốn sau khi vãng sanh được về Tây phương Lạc Quốc để tu tiếp thành Phật thì trước
hết khi còn sống phải phát tâm thực hành Bồ-Tát hạnh để tu Bồ-Tát đạo ngay trong đời nầy,
ngay từ bây giờ. Vì trong thời mạc pháp chỉ có duy nhất một Phật Thích Ca, một nước không thể có hai vua, đó là định tắc tất yếu của tự nhiên. Còn trong đời nầy ai xưng là Phật sống thì đó là ma chướng vậy.
Tu là lăn
xả giúp đời,
Tu không
ôm mõ mà ngồi tụng suông.
Đó
là tu Bồ-Tát đạo, thực hành Bồ-Tát hạnh. Tu như vậy là để tự mình trả nghiệp
xưa ngay trong đời nầy, kiếp nầy. Nghiệp mình gây ra thì mình phải tự giải, nợ ai mình phải tự trả, không ai trả thay cho mình được, không ai hốt nghiệp cho mình được, nếu hốt được nghiệp thì Phật Bồ-Tát đã hốt giùm hết nghiệp cho hơn năm tỉ dân trên thế giới nầy để biến
địa cầu đầy nghiệp chướng tội lỗi nầy thành Lạc Quốc rồi, cần gì Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni phải ròng rã 49 năm đi dọc khắp bờ sông Hằng (là con sông dài nhất Ấn Độ) hoằng pháp độ sinh, Bồ-Tát Quán-Thế-Âm phải tầm thanh cứu khổ, Bồ-Tát Địa-Tạng phải vào tận địa ngục cứu độ cho bối rối tâm linh. Thấy
chúng sanh khổ đau trôi lăn mãi trong sinh tử luân hồi lục đạo, Phật Bồ-Tát cũng khổ
tâm thương xót lắm chứ ! Vì thế Đức Phật Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni mới xả thân tìm
ra con đường giải thoát để chỉ bày cho chúng sanh thấy mà tự tu (thấy nghiệp), tự chứng (trả nghiệp), tự ngộ (trả xong nghiệp, giải thoát). Phật đã tìm ra con
đường thoát khổ vĩ đại rồi thì đệ tử Phật đời sau không cần phải nhọc công thiền
định quán chiếu tìm kiếm nữa, mà hãy hành đạo để giải nghiệp, gieo thêm ruộng phước và tiếp tục truyền bá giáo lý Phật
để chúng sanh hiểu mà thoát khổ. Tu để giải thoát chứ không phải tu để làm
Tăng, để cứ mãi luân hồi trong sanh tử làm Tăng, bắt chúng sanh phải lo cho mình
suốt đời rồi gánh thêm nghiệp chướng vào thân, nhiều Tăng còn nổi tam độc (tham sân si) làm sai lệch giáo lý Phật,
lừa dối chúng sanh, dùng tà pháp mê tín dị đoan mê hoặc chúng
sanh thấp trí mê muội nữa…
Trong thời đại ngày nay, nền khoa học đang phát triển cao, con người đòi
hỏi nhiều nhu cầu hơn xưa, lo cho cuộc sống chiếm hết thời gian mỗi ngày, nên
không còn thời gian để tu hành. Chúng sanh cần phải có cách tu gọn nhẹ, dễ tu,
giáo lý giản đơn, thực tế. Kinh tạng dành cho các nhà nghiên cứu, còn chúng ta
chỉ cần cách tu thực tế. Đức Phật Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni đã nhìn thấy được nên
Ngài đã hiển bày pháp môn tu Tịnh-độ (niệm
Phật) khi còn tại thế để chúng sanh thời mạc pháp nầy thực tu, xiểng dương Phổ-Hiền
thập hạnh (mười hạnh Phổ-Hiền) trong
hai bộ kinh lớn Pháp-hoa và Hoa-nghiêm để chúng sanh theo đó hành Bồ-Tát đạo.
Sư phụ Đức Chơn dạy :
Sư phụ Đức Chơn dạy :
Suốt đời tu một pháp môn,
Khi ta đắc pháp muôn ngàn pháp theo.
Không cần phải tìm nhiều pháp môn tu, chỉ cần chọn một pháp đơn giản gọn nhẹ để tu là được, vì còn phải dành thời gian lo nuôi sống bản thân, gia đình, có dư ra giúp đở xã hội nữa chứ. Muốn chuyên tu thì bỏ hết lên rừng sâu núi thẵm mà tu cho thoát tục. Sau 49 năm hoằng pháp độ sanh, Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni đã để lại một kho tàng giáo lý đồ sộ gồm 5.043 kinh và 84.000 pháp tu. Riêng ta chỉ có một tâm nầy nên cần chọn một pháp tu và một kinh tương ưng gọn nhẹ là đủ (Nguyên Chương).
Phổ-Hiền thập hạnh là gì
? Đó là 10 đại hạnh Bồ-Tát Phổ-Hiền phát đại nguyện vâng lời Phật dẫn dắt chúng
sanh tu hành đắc Bồ-Tát-đạo ngay trong hiện đời :
1.
Lễ kính chư Phật,
2.
Xưng tán Như Lai,
3.
Quảng tu cúng dường,
4.
Sám hối nghiệp chướng,
5.
Tùy hỷ công đức,
6.
Thỉnh Phật chuyển pháp luân,
7.
Thỉnh Phật trụ thế,
8.
Thường tùy Phật học,
9.
Hằng thuận chúng sanh,
10. Phổ giai hồi hướng.
10. Phổ giai hồi hướng.
Bây
giờ, nương theo giáo lý chính thống của Phật, chúng ta đi sâu vào từng nội dung trên để áp dụng
trong đời sống hằng ngày, thực hành Bát-chánh-đạo để trợ duyên cho thực tu
Phổ-Hiền Thập hạnh, tức tu Bồ-tát-đạo.
1. Lễ
kính chư Phật :
Lễ thuộc về thân, kính thuộc về tâm.
- Thân
lễ :
Hằng ngày luôn hướng về đức lớn của Phật để noi theo trong cuộc sống. Sau một
ngày làm ăn bận rộn vất vả, tối về thân thể tinh tấn an tịnh rồi thì lạy Phật, để
tưởng nhớ lời Phật dạy trong một ngày qua mình đã làm ăn chân chính, không lừa
dối mưu hại ai.
- Tâm
lễ : Tin sâu rằng mười phương chư Phật Bồ-Tát đều nghe, thấy, biết việc
mình đã làm trong ngày qua. Hiểu như vậy rồi, niệm Phật tán thán để ngày hôm
sau mình tiếp tục làm ăn chân chính hơn nữa.
Phật dạy trong mỗi chúng sanh (là
tất cả những loài có sự sống, tức người và không phải người) đều có chủng tử Phật, quyết tu sau khi vãng sanh về Cực Lạc tu tiếp sẽ thành Phật.
Nên kính lễ chư Phật tức là kính lễ Phật đã thành và cả Phật sẽ thành trong tâm mỗi chúng sanh. Ý nói
trên kính chư Phật, ngoài tôn trọng chúng sanh, không khinh rẻ, bức hại, tàn
sát mọi loài. Vì Đức Phật đã dạy : "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành".
Ngoài ra, lễ Phật là biểu lộ lòng nhớ ơn, tôn
kính đối với Phật, chứ không phải lễ Phật để cầu xin cuộc sống cho mình được
sung túc ấm no. Vì cuộc sống hiện tại của mỗi người là do nghiệp trong đời quá khứ mình tạo ra, chứ không ai lo cho mình được.
Kiếp nầy sinh sống ra sao,
Là do kiếp trước gieo bao nghiệp dày...
2. Xưng tán Như Lai :
Luôn luôn ghi nhớ ơn đức cao dày của Phật Bồ-Tát
đã để lại giáo lý vĩ đại cho mình hiểu được luân hồi nhân quả mà lo làm ăn chân
chính (tu hành) để tự cầu giải thoát.
Thường tâm niệm danh hiệu Phật Bồ-Tát để tán thán công đức đó.
Luôn tin tưởng ngoài Phật Bồ-Tát ra thì không còn hình tượng nào khác để
mình tôn thờ nữa, dù hình tượng đó trên lý thuyết có tài giỏi cách mấy trong đời nầy thì cũng
là của họ chứ không phải của mình, vì Phật Bồ-Tát ở ngay trong tâm mình chứ
không đâu xa. Mình chỉ tôn trọng và trợ duyên cho họ giúp đời, không được coi
thường, phỉ báng, nếu thấy họ đi sai chánh pháp thì nhẹ nhàng và thẳng thắn
khuyên bảo. Không dính mắc vào hình tượng nào khác làm cho tâm loạn động dễ bị
ngoại đạo sai khiến đi sai pháp Phật. Vì tất cả không ra ngoài chánh pháp của
Phật, chỉ có cách truyền đạt giáo lý và cách hành đạo sai mà thôi.
Về
mặt tánh, ta xưng tán điều thiện và làm việc thiện, không xưng tán điều ác và làm việc ác.
3. Quảng tu cúng dường :
Quảng là rộng lớn, cúng dường là dâng, hiến, tặng. Trên cúng dường Phật, Pháp, Tăng,
ngoài chúng thì bố thí, phóng sanh. Quảng tu cúng dường là hạnh cúng dường rộng
lớn trong khắp cả hư không pháp giới. Cúng dường có sự cúng dường và tâm cúng
dường.
- Sự
cúng dường : Là đóng góp tu sửa nơi thờ Phật Bồ-Tát bị hư hỏng (chứ không xây dựng chùa to Phật lớn trong
khi chúng sanh còn thiếu thốn đói khổ), xây dựng nhà tình thương cho dân
nghèo, làm cầu đường cho mọi người đi lại, in kinh sách giáo lý gọn nhẹ, dễ hiểu hiến tặng mọi
người để họ hiểu rõ Phật pháp mà tu hành, lo thuốc men khi Tăng Ni ốm đau hoạn
nạn, giúp tài vật cho chùa có điều kiện đủ sinh hoạt tối thiểu. Nói tối thiểu
là vì người xuất gia tu hành là để độ chúng chứ không phải chúng độ, nên phải sống khắc khổ hơn chúng
mới là chánh pháp, còn ngồi đó ăn mặc sung sướng hành hạ chúng là tà pháp vậy.
Nhiều người hiểu biết nông cạn cho rằng cúng dường Tăng là cúng dường Phật, vì
Tăng là Phât. Nhưng Tăng không phải là
Phật, Tăng chỉ là người thay Phật đem giáo lý của Phật để dẫn dắt chúng tu hành. Tăng cũng là con người mang thân thịt thối như chúng sanh, có điều kiện
là thân đó khởi dậy bao nhiêu điều sai quấy. Nếu người Phật tử mê mờ đem tài
vật cúng dường Tăng quá nhiều sẽ làm cho Tăng khởi lòng tham tích lủy cho bản thân. Thực tế hiện nay đã có nhiều Tăng bị luật pháp trừng
trị, giáo hội khai trừ, nhất là các Tăng trẻ đường tu còn non cạn bị thiểu số Phật tử mê mờ nhúi cho cả đống tiền tiêu xài, rồi bị ngoại tà lợi dụng dụ dỗ phạm giới. Người ăn chay, nhất là người xuất gia thường hiển lộ thiện nghiệp rất được người chung quanh yêu mến. Cho nên Tăng
hư lỗi trước hết là do Phật tử mê mờ tạo nghiệp xấu cho Tăng. Đã là Tăng thì phải sống
biết đủ (tri túc) và không ham muốn (diệt dục) thì mới tinh tấn tu học và
thay Phật dẫn chúng tu hành theo chánh pháp được.
Tu là lăn xả giúp đời,
Tu không ôm mõ mà ngồi tụng suông...
Cần chi chả phụng, nem công,
Tu không ôm mõ mà ngồi tụng suông...
Cần chi chả phụng, nem công,
Uống ăn cót dụng no lòng để tu.
- Tâm
cúng dường : Tâm cúng dường quan trọng hơn sự cúng dường, vì tài
vật cúng dường dù to lớn cách mấy mà cái tâm thiếu chân thành hoan hỷ, nặng hình thức phô trương thì cũng
như không. Cách cho hơn của đem cho là vậy.
Trong
cúng dường thì Pháp cúng dường là quan trọng hơn cả. Vì Pháp cúng dường gồm đủ
cả sự và tâm. Đem giáo lý của Phật đến với chúng sanh là hạnh cúng dường cao
vời vợi không thể nghĩ bàn.
Y
theo chánh pháp tu hành viên mãn, lấy kết quả đạt được hướng dẫn người khác
cùng tu cũng là Pháp cúng dường rộng lớn vô cùng tận.
4. Sám hối nghiệp chướng :
Nghiệp có thân nghiệp, khẩu
nghiệp và ý nghiệp. Chướng có nghiệp
chướng, báo chướng và phiền não chướng.
Mỗi chúng sanh đều mang nghiệp chướng sâu nặng từ những kiếp xa xưa và
hiện đời. Nên khi luân hồi được về lại làm người (may mắn không làm súc sanh) thì phải cố gắng tu hành để giải
nghiệp cho chính mình hầu mong cầu giải thoát khỏi luân hồi sanh tử khi vãng
sanh.
Phải mau sám hối hồi tâm,
Bỏ chừa tội trước, gieo mầm phước sau.
Phải thành tâm sám hối hết thảy ác nghiệp đã làm trong kiếp trước và
trong hiền đời, thề không tái phạm, và quyết tâm thực hành thiện nghiệp trong
đời nầy để gieo mầm phước đức cho kiếp sau. Phải làm cho thân, miệng, ý xa rời
khỏi tham, sân, si thì việc sám hối mới hiệu quả. Phải tin vào luật nhân quả, gieo nhân nào gặt quả đó, chỉ mau hay chậm thôi.
Luân hồi, nhân quả chẳng sai,
Gieo chi gặt nấy mấy ai không tường.
Kiếp nầy gieo phước mười phương,
Tạo nhiều nghiệp thiện cho đường kiếp sau,
Nếu mà gieo ác nghiệp vào,
Kiếp sau phải chịu lao đao, khổ sầu...
Phật dạy : “Tất cả nghiệp thiện
và nghiệp ác đều do tâm tạo”. Cho nên muốn đoạn dứt được nghiệp ác, gieo trồng nghiệp thiện thì tâm
phải thanh tịnh, trí phải sáng suốt, huệ phải viên mãn. Có như vậy mới thấy rõ
được thiện ác mà làm hay tránh.
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu.
Phật cũng đã dạy trong kinh Pháp-Cú và kinh A-Hàm :
Không làm các điều ác,
Nên làm các việc thiện,
Giữ tâm ý trong sạch,
Đó là lời Phật dạy.
(Chư tác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật pháp.)
Vâng theo lời Phật dạy, làm theo lời hay ý đẹp của thánh hiền là
pháp sám hối ý nghĩa nhất.
5. Tùy hỷ công đức : Tùy là thùy theo, hỷ là vui vẻ. Tùy hỷ là
vui theo cái vui của người khác mà không can dự vào cái vui đó, nghĩa là đứng
ngoài mà hoan hỷ niềm vui của chúng sanh chứ không chia phần. Ví như Bồ-Tát chỉ chỗ cho chúng sanh
lấy kho báu nhưng Bồ-Tát không nhặt một viên ngọc nào.
Cũng như xin tiền, vật phẩm làm từ thiện thì đem phân phát hết chứ không
giữ lại cho mình tí gì cả gọi là lấy công, nghĩa cử đó là chân thiện, là tùy hỷ
công đức.
Thấy người khác tu hành tiến bộ, đạo hạnh hơn mình thì vui mừng tán thán và noi gương họ chứ không đố kỵ ganh ghét, đó là tùy hỷ công đức.
Hoan
hỷ tán thán công đức hết thảy chư Phật, Bồ-Tát, Thanh văn, duyên giác, cho đến
hết thảy mọi loài chúng sinh, là tùy hỷ công đức rộng lớn (maha).
Ta
có tài vật dư dùng, có ai đó thiếu thốn cần giúp đở, ta hoan hỷ trích ra hiến
tặng họ, là tùy hỷ công đức.
Chân thành giúp đở mọi người không biết mệt mỏi, không lùi bước (bất thối chuyển), với tâm nguyện chỉ
mong cho mọi người đều hết khổ, là tùy hỷ công đức Bồ-Tát hạnh.
6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân :
Là phát tâm cầu xin Đức Phật Tì-Lô-Giá-Na ứng hóa thân thuyết pháp độ sanh
gọi là thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Như
Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni, ứng hóa thân của Phật Tì-Lô-Giá-Na, qua 49 năm (hay 45 năm) hoằng
pháp độ sanh, đã để lại cho chúng sanh một kho tàng giáo lý to lớn theo đó mà
tu hành. Chứ khi thân Phật chết rồi làm sao ta có thể thỉnh Phật sống lại để tiếp
tục hoằng pháp độ sinh ?
Theo thực tế mà nói thì người chết rồi không thể làm cho sống lại được.
Nhưng tiếng tốt và không tốt của người đó thì còn lưu mãi, người sau nhắc lại
cái tốt để ngợi khen học hỏi, và cái xấu để rút kinh nghiệm răn chừa. "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng" là vậy. Không ai
muốn để lại cho đời tiếng xấu cả. Nên khi còn sống ta phải cố gắng tu hành,
nghĩa là giữ vững ngũ giới theo lời Phật dạy, thực hành Bát-chánh-đạo, tu hạnh
Phổ-Hiền, hành hạnh Tứ-vô-lượng-tâm viên mãn, noi gương đức từ bi Quán-Thế-Âm, lăn
xả vào địa ngục độ sinh như Địa-Tạng, làm cho Phật tâm ta sáng lên, dung nhiếp
Phật quá khứ với Phật hiện tại trong tâm ta thành một. Rồi đem thành tựu đạt
được truyền bá đến người chung quanh cũng tu hành viên mãn như ta, giữ vững
chánh pháp không bị mai một. Đó gọi là thỉnh Phật chuyển pháp luân. Tức tâm ta
là tâm Phật hiện tại, trí ta là trí Phật thường hằng, thân ta là thân Bồ-Tát tại thế, đem
giáo lý của Phật chuyển pháp luân đến chúng sanh. Đó là trách nhiệm chung của người Phật tử tu tại gia cũng như xuất gia.
7. Thỉnh Phật trụ thế :
Thỉnh
cầu các chư Phật Bồ-Tát trong khắp tam thiên đại thiên thế giới nếu muốn nhập
Niết-bàn hãy trụ lại thế gian để dẫn dắt chúng sanh còn mê mờ trôi lăn trong bể
khổ, vượt qua sinh tử để đến bờ giác ngộ. Đó là cái lý thỉnh Phật trụ thế khó
tin đối với chúng sanh căn cơ còn thấp, chưa nhập được tri kiến Phật.
Còn cái sự là tự dung nhiếp tâm ta thành tâm Phật Tì-Lô-Giá-Na, là Phật
thường hằng trong mỗi chúng sanh, đem giáo lý của Phật để lại giáo hóa chúng
sanh tu hành Bồ-Tát-đạo để sau nầy đắc pháp thành Phật (như Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni là ứng hóa thân của Phật Tì-Lô-Giá-Na).
Muốn thực hiện cái sự có sẵn trong tâm ta thì ta phải tin sâu vào Phật
pháp nhiệm mầu, quyết tâm tu học theo chánh pháp của Phật, làm cho ánh sáng
Phật pháp chiếu sáng rực rỡ trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, như hào
quang của Phật Tì-Lô-Giá-Na chiếu sáng khắp cùng trong từng thớ thịt, khớp xương, mạch máu, đến
từng tế bào thân ta, biến thân thịt thối nầy thành như kim thân của Phật. Đó là tâm thỉnh Phật trụ thế.
Tâm
Phật là tâm chơn-như, trí Phật là trí kim-cương, huệ Phật là huệ thường-hằng,
thân Phật là thân kim-sắc, nên Phật không bị sanh diệt chi phối tác động. Phật
làm chủ được thân tâm nên tự tại trong việc đến và đi, tướng sanh diệt của Phật
chỉ là phương tiện. Chúng sanh tin sâu có Phật thì Phật tâm hiện, niềm tin bị
che mờ bỡi vô minh thì Phật tâm ẩn. Phật đã dạy : "Trong mỗi chúng sanh đều có chủng tử Phật thường hằng, chúng sanh thành Phật Phật chủng không tăng, chúng sanh đọa tam đồ Phật chủng không giảm". Vì thế tin sâu có Phật Bồ-Tát là thỉnh Phật
trụ thế vậy.
8. Thường tùy Phật học :
Thường
là thường xuyên, luôn luôn, tùy là
tùy theo, tùy thuận, tùy duyên, tùy hỷ. Thường tùy Phật học là thường xuyên đi
theo bước chân của Phật, luôn luôn hành trì Phật pháp không ngơi nghĩ gián
đoạn, tùy theo căn trí của mình mà tu hành, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà
giáo hóa, không chống lại pháp thế gian. Phật dạy : “Phật pháp bất ly thế gian giác” (pháp Phật không rời pháp thế gian).
Không chống lại pháp thế gian nghĩa là phải có
trí huệ kim-cang, phải tinh nhẫn thực hành Bát-chánh-đạo để hòa nhập với thế
gian hoằng dương chánh pháp mà không bị pháp thế gian chi phối mê hoặc. Phải
vận dụng trí huệ Bồ-Tát : tịnh trong chỗ động.
Trong kinh Pháp Cú Phật dạy : “tu
mà không học là tu mù, học mà không tu là con mọt sách”. Cho nên người Phật
tử cần phải vừa tu học luôn trau dồi kiến thức Phật pháp tối thiểu để khỏi đi lầm đường
rơi vào tà vạy, vừa hành đạo để thay Phật độ sanh. Đó là thường tùy Phật học.
Chúng sanh khổ nguyện xin cứu khổ,
Chúng sanh khổ nguyện xin tự độ.
9. Hằng thuận chúng sanh :
Hằng
thuận chúng sanh là tùy theo học thức, tri thức, kiến thức, căn cơ của chúng
sanh mà hướng dẫn chúng sanh tu hành theo chánh pháp của Phật, đem tâm Bồ-Tát vào bến mê, chèo thuyền Bát-nhã ra bể khổ để dìu dắt chúng sanh quay về bờ giác.
Qua
49 năm (hay 45 năm) hoằng pháp độ sanh, Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni đã để lại 5.043 kinh và
84.000 pháp tu để tùy bệnh cho thuốc, tùy căn cơ chúng sanh mà nói pháp đưa
chúng sanh thoát khỏi bể khổ đến bến bờ giải thoát. Việc làm đó gọi là
hằng thuận chúng sanh.
Trong cuộc sống hằng ngày, khi có ai đó nói hoặc làm trái ý của ta, nếu
không có tâm hạnh hằng thuận chúng sanh thì ta sẽ nổi giận phản đối lại ngay.
Nhưng đã có tâm hằng thuận chúng sanh viên mãn rồi thì ta bình tĩnh tìm ra cái
đúng trong đó để khen ngợi cho người đó thỏa lòng trước, sau đó nhẹ nhàng dùng
lời dịu ngọt (ái ngữ) chỉ ra cái chưa được của họ thì họ sẽ tâm đắc ngay. Còn nếu ta
phản đối ngay thì sẽ sinh ra xung đột, dẫn đến thù oán.
Đối với học sinh, sinh viên, trí thức, công nhân, nông dân, người trí,
kẻ ngu, ta đều tùy duyên mà đứng về phía họ hướng dẫn, dìu dắt họ cùng quay về chánh pháp hành Bồ-Tát-hạnh để
tiến đến tu Bồ-Tát-đạo viên mãn. Đó là hằng thuận chúng sanh.
Biên soạn giáo lý gọn nhẹ, dễ hiểu, dễ hành, dùng ngôn từ bình dị gần gũi, để in sách hiến tặng mọi người tu học theo chánh pháp của Phật dễ dàng, đó là hằng thuận
chúng sanh.
Muốn đạt được hạnh hằng thuận chúng sanh thì trước hết người Phật tử
phải thấm nhuần hạnh tu Tứ-vô-lượng-tâm (từ
- bi – hỷ - xả), liễu ngộ Bát chánh đạo, phải có trí huệ viên mãn, mới có
thể thấu đáo sự việc để ứng phó tức thời
được. Muốn vậy phải tu tập Thiền, vì chỉ có tu tập Thiền thì huệ mới khai mở. Thiền định viên mãn sẽ đưa trí chúng
sanh từ vỏ nảo đi vào huệ Bồ-Tát tại trung
nảo, mới có thể phán đoán sự việc nhạy bén trong sát na, như giòng suy nghĩ trụ
trên đầu sợi tóc. Hiệu quả đó làm cho người tu thanh thảng nhẹ nhàng thân tâm, hoan hỷ công đức.
Chúng sanh nhìn sự việc bằng trí nên phải có thời gian suy nghĩ lâu
vì phải cân nhắc so đo nhọc nhằng, Bồ-Tát nhìn sự việc bằng huệ nên không cần suy nghĩ, sự vừa xảy ra là bằng trực giác Bồ-Tát thấy
ngay lý hiện tiền.
10. Phổ giai hồi hướng :
Phổ là trải rộng ra, giai là đều khắp, hồi là quay lại, hướng
là hướng về. Phổ giai hồi hướng là lấy công đức có được trong tu hành để ban
trải dâng hiến ra cùng khắp tận hư không biến pháp giới.
Chín hạnh nguyện Phổ-Hiền từ (1)Kính lễ chư Phật đến (9)Hằng thuận
chúng sanh, có được bao nhiêu công đức đều đem (10)hồi hướng hết đến mười phương
chư Phật Bồ-Tát và khắp cả pháp giới chúng sanh là phổ giai hồi hướng.
Dùng nước từ bi tưới cho chúng sanh mát mẻ tinh sạch, dùng cây Bồ-đề che
bóng cho chúng sanh trú nắng mưa, dùng hoa Bồ-Tát tặng chúng sanh hương thơm
Phật pháp, dùng quả Như-Lai gieo mầm phước đức cho chúng sanh hưởng lộc thánh
hiền. Đó là phổ giai hồi hướng của Bồ-Tát hạnh vậy.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phổ giai hồi hướng bằng cách :
Biên soạn kinh sách ngắn gọn dễ hiểu tặng cho người chung quanh hiểu rõ giáo lý
của Phật. Tại gia sống biết đủ (tri túc), ít
ham muốn (thiểu dục) để thân tâm được
thảnh thơi, nhẹ nhàng, an tịnh, do ít nhu cầu vật chất. Ăn uống đạm bạc đơn sơ để có dư
tích lũy dùng vào việc thiện. Đem những sinh lợi gì mình có được, chia sẻ với
thân thuộc họ hàng còn đang thiếu thốn, giúp đở người bơ vơ trôi nổi ngoài xã
hội. Đem tâm từ bi thực hiện phóng sanh để giải thoát cho những loài cầm thú bị
còng trói nhốt có duyên với ta được quay về với thiên nhiên đã sống trước đây,…
Tất cả công hạnh có được đó đem ban trải hiến tặng lại cho chúng sanh. Đó là
chân-pháp hồi hướng.
Tóm lại, chúng ta có được nhân duyên lớn tu hạnh Phổ-Hiền, đưa Phổ-Hiền
thập hạnh vào hòa nhập trong đời sống hằng ngày của người con Phật, lấy
Bát-chánh-đạo làm trợ lực, lấy từ-bi-hỷ-xả làm hành trang, lấy Bát-chánh-đạo làm bệ phóng, lấy ngũ giới làm thước đo, chắc chắn sẽ thành
tựu viên mãn trên lộ trình Hoa-nghiêm dẫn về Lạc Quốc khi vãng sanh.
Xin được phép mượn lời kết bài tham luận của Tiến sĩ Vương-Thư-Ưu, tổng thư ký
tổng hội cư sĩ Malaysia đọc tại diễn đàn cư sĩ Phật giáo thế giới lần thứ tư, do
thầy Thích Giải Hiền, giảng viên học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội dịch
sang Việt ngữ, để kết thúc mạn đàm nầy :
“Phổ-Hiền
thập nguyện không chỉ là thời khóa bắt buộc hàm chứa hết thảy các pháp môn tu
hành của Phật giáo truyền thống, mà thông qua nhận thức thâm nhập vào nội hàm
càng cho thấy được những gợi ý, chỉ dẫn chính đáng, tích cực về việc tin ngưỡng
và tu trì của tu sĩ Phật giáo hiện đại. Người học Phật hiện nay phải đối mặt
với những thách thức như quỷ thần hóa, đời sau hóa, học thuật hóa, triết lý
hóa, và thần tượng hóa Phật giáo ; trong tu trì lại gặp phải những hiện tượng
như danh lợi hóa, nhanh chóng hóa, cá thể hóa, ngoại đạo hóa, và sáng tạo thêm
bớt… Nhưng chúng ta tin rằng : tin ngưỡng y theo nơi chánh pháp, lấy thiện pháp
để cúng dường, lấy tinh tấn làm hành trang, lấy bạn đạo làm gương học, lấy
hướng tu để tự lợi tự tha cùng các giáo pháp khác hàm chứa trong Phổ-Hiền thập
nguyện hạnh sẽ phát huy được vai trò chỉ đường tích cực trong quá trình tu học
Phật để tự lợi tự tha”.
Với tất cả tâm nguyện muốn Phổ-Hiền-thập-hạnh-nguyện được mọi người trong mọi giới đều hiểu và hành theo trong đời sống
hằng ngày vốn quá nhiều áp lực mưu sinh, chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót
thiển cận. Con cúi xin trên chư Tôn đức hoan hỷ và chỉ dạy thêm. Mong quý chư
thiện tri thức góp ý, bổ sung cho những chỗ còn thiếu sót hoặc sai lầm nếu có.
Nguyện cầu cho khắp pháp giới chúng sanh đều tin ngưỡng quyết tu theo Phổ-Hiền-thập-hạnh-nguyện để thành tựu Bồ-Tát đạo ngay trong đời nầy.
Nguyện cầu cho khắp pháp giới chúng sanh đều tin ngưỡng quyết tu theo Phổ-Hiền-thập-hạnh-nguyện để thành tựu Bồ-Tát đạo ngay trong đời nầy.
Xin đem công đức nho nhỏ có được từ mạn đàm nầy hồi hướng hết đến quý
hành giả đang tin ngưỡng tu theo con đường Phổ-Hiền hạnh nguyện và đến khắp cả
pháp giới chúng sanh được trọn thành Bồ-Tát đạo.
Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-Tát,
Nam mô Công đức lâm Bồ-Tát,
Nam mô Công đức lâm Bồ-Tát,
Nam mô phổ
cúng dường Bồ-Tát,
Bình Dương, tháng 7-2015
NGUYÊN CHƯƠNG
cẩn soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét