Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015





TA BÀ
&
CỰC LẠC



NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm

TỊNH THẤT NGUYÊN CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh
tỉnh Quảng Nam
ấn tống



NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
        Trong cuộc sống hằng ngày, có bao nhiêu điều trăn trở, lo âu, nghĩ suy nói ra không hết, làm cho thân tâm mõi mệt, nặng nề, u uất. Người Phật tử biết vậy nên chuyên tâm tu hành để thoát khổ về Lạc quốc, tức Cực-lạc. Khổ là cõi Ta-bà, là nơi chúng sanh phải sống trong khổ đau triền miên. Cực-lạc là cõi Phật, nơi chúng sanh đã thoát ra khỏi khổ đau luân hồi sanh tử. Chỉ cách dùng từ cũng đã thấy hai cõi nầy hoàn toàn khác biệt, một nơi toàn khổ đau, một nơi toàn an vui.
        Nhưng dù Ta-bà hay Cực-lạc cũng đều là tướng, đều do tâm trạng phát khởi nên không có thực, đã không có thực thì là giã tạm, là huyễn mộng. Mộng có mộng đẹp lành an vui và mộng xấu ác khổ đau. Từ đó, ta mặc nhiên đồng thuận cõi Ta-bà là cõi mộng xấu ác khổ đau, cõi Cực lạc là cõi mộng đẹp lành an vui. Nói tất cả đều do tâm khởi, tâm định thì pháp chẳng còn. Nhưng thử hỏi tâm ta có bao giờ an định được đâu, luôn biến động trong cảnh giới Ta-bà nầy, nên pháp cũng hiện hữu, tức Ta-bà, Cực-lạc cũng hiện hữu vậy. Xin chớ hiểu lầm, pháp chẳng còn không có nghĩa là pháp mất, là bỏ pháp, mà là pháp dung nhiếp với tâm, pháp với tâm là một. Chưa thành Phật mà bỏ pháp là mất đạo, cửa địa-ngục hiện tiền.
Pháp sanh do tâm động,
Tâm định pháp chẳng còn.
Pháp Tâm đồng nhất thể,
Phật tánh là trẻ con.
        Nương theo giáo lý của Phật, xin được mạn phép chia sẻ cùng quý Phật tử đôi lời non cạn về đời sống ở cõi Ta-bà và cõi Cực-lạc một cách khoa học, để chúng ta quyết tâm tu hành tinh tấn theo chánh pháp, và tin ngưỡng những lời dạy cao quý và thực tế của đức Bổn sư thích-Ca-Mâu-Ni Phật.


CÕI TA BÀ
        Ta-bà Tàu phiên âm từ tiếng Phạn (samsàra, saha), dịch ra tiếng Việt nghĩa là Nhẫn chịu. Cõi Ta-bà là cõi giáo hóa của Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni, Ngài là giáo chủ cõi nầy. Cõi nầy cũng do Nguyên-Thỉ-Thiên-Tôn là giáo chủ của Tiên-đạo cai quản. Cõi Ta-bà có ba nghìn thế giới lớn, gồm một nghìn tỉ Thái dương hệ. Địa cầu chúng ta đang ở nằm một trong những Thái dương hệ đó. Phật giáo gọi cõi nầy là cõi Dục giới (tức lục đạo, sáu đường : trời, người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục), tức cõi còn tham, sân, si, vẫn còn trôi lăn trong sinh tử luân hồi nhân quả. Con người trong cõi Ta-bà mãi sống trong cái vòng lẩn quẩn sanh, già, bệnh, chết, nó bám theo ta đời đời kiếp kiếp như hình với bóng, kiếp làm người, kiếp làm súc sanh, kiếp làm ngạ quỷ, cô hồn, nếu không chịu tu hành để giải thoát.
       Người giàu thì sung sướng đó, nhưng ngày đêm nơm nớp lo sợ trộm cướp, thù oán, cháy nhà, bệnh tật, hoạn nạn…, lo công việc làm ăn đình trệ, cạnh tranh, thất bại, lo thời thế đổi thay… Ôi, đủ thứ lo. Lo nên khổ, giàu cũng khổ, giàu cũng khóc.
        Người nghèo thì lo chạy ăn từng bữa toát mồ hôi, lo bệnh tật không có tiền uống thuốc, lo con cái không có tiền học hành đến nơi đến chốn, lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ không chu đáo, lo nhà cửa hư hỏng không có tiền sửa chữa, lo chuyện phải không,… khóc không ra nước mắt.
        Sống trong cõi Ta-bà nầy mọi người đều phải lo cho có tiền để nuôi thân, nuôi gia đình, giúp đở họ hàng, xã hội. Sống trong vô minh nghiệp chướng giã tạm nên tâm trạng luôn bất an, phiền não chất chồng,… Ngoài xã hội thì tình hình luôn xáo trộn không lúc nào yên dù công khai hay âm ỉ, chiến tranh loạn lạc, khủng bố, hận thù, chia rẻ, dối lừa phản hại nhau, thiên tai dịch bệnh,… Con người luôn sống trong lo âu đủ thứ, khổ khổ chất chồng. Ôi, nghĩ mà thương tâm !
        Năm 1964, cố sư phụ Liệt sĩ Đại đức Pháp sư Thích Giác Lượng (Thầy đã hy sinh ngày 15-11-1967 tại chiến trường Tây Trà My, Quảng Nam) đã viết cho tôi lá thư cuối cùng trước khi thoát ly có đoạn:
"Cơ ơi !
...Kiếp nhân sinh mấy lúc được vừa lòng,
Tìm sự sống chết dần trong sự sống.
Đã biết rằng cuộc đời là huyễn mộng,
Luyến lưu chi cho ray rức tâm tư...
          ...Thầy không khuyên Cơ đừng buồn, không suy nghĩ, vì chính con người hơn sinh vật là ở chỗ đó".
        Phật giáo quan niệm rằng, cõi Ta-bà như một quán trọ, như chỗ ở tạm, là bể khổ trầm luân. Nhân loại sống trong cõi nầy đều vô thường, giã tạm, không thật. Từ vua quan, đến nhà giàu, người nghèo, kể cả loài vật, sống lo vun quén để dành, xây nhà cao cửa rộng, ăn mặc cầu kỳ, khi chết ra đi hai bàn tay trắng,  bốn chân không, không đem theo được thứ gì cả. Thân giã tạm nầy lúc sống phải lo nuôi nó ăn, chăm sóc nó đủ điều, nó được mọi người gần gũi mến thương nể trọng hay khinh khi ghét bỏ, khi chết đi mấy ngày nếu không tẩm liệm an táng sẽ thành đống thịt thúi ai cũng bịt mũi tránh xa. Một nghịch lý muôn đời mà con người và loài vật phải gánh chịu khi trót sanh ra ở cõi Ta-bà nầy !
        Trong truyện thơ “Bích Câu Kỳ ngộ” (xuất hiện từ thời Tiền Lê nước ta, không rõ tác giả) có đoạn tả cảnh trần gian, tức cảnh địa cầu chúng ta đang ở, rất hay :
“Rằng : coi cho thấu sự đời,
Giam danh, khóa lợi những người thế gian.
Trời thu mây hợp lại tan,
Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy lăm.
Gẫm trong tám, chín mươi năm,
Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru.
Thịt xương gởi đám diêm phù,
Sinh sinh, hóa hóa trong lò hồng quân.
Đố ai vượt khỏi hồng trần,
Sông mê chìm nổi, thế nhân đã đầy.
Anh hùng những mặt xưa nay,
Trăm năm nát với cỏ cây cũng là.
Dần dần tháng trọn ngày qua,
Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu.
Thôn hoang mấy nấm cổ khâu,
Nọ nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc Dương,
Chưa đầy một cuộc tang thương,
Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng”…



CÕI CỰC LẠC
        Cực là tột cùng, lạc là vui vẻ. Cực-lạc là Tàu dịch, Việt dịch là cõi thuần vui, tiếng Phạn là Sakhàvatì, tiếng Sanchrist là Gukusaku. Cõi Cực-lạc là cõi vui vẻ tột cùng, không có khổ đau phiền não. Có hai cõi Cực-lạc hay Lạc quốc : Tây phương Cực-lạc là cõi của Đức Phật A-Di-Đà đang giáo hóa những chúng sanh đã tu hành giác ngộ ở cõi Ta-bà sau khi chết hóa sanh về đây tu tiếp để thành Phật. Cõi Cực-lạc ở cách cõi Ta-bà 10.000.000 (10 vạn ức) cõi nước Phật. Nó gồm nhiều Thái dương hệ như Thái dương hệ chúng ta. Ngoài Tây phương Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà ra còn có Đông phương Cực Lạc do Đức Phật Dược-Sư làm giáo chủ gọi là Đông phương Tịnh quang Lưu ly Lạc quốc.
      Trong kinh A-Di-Đà, Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni gọi ngài Xá-Lợi-Phất lại dạy rằng : “Nầy Xá-Lợi, vì sao gọi là Cực-lạc ? Vì chúng sanh trong cõi đó không có các điều khổ, chỉ hưởng toàn những sự thuần vui…”
        Để biết rõ cảnh giới ở cõi Cực-lạc, xin mạn phép cẩn trích một đoạn kinh A-Di-Đà diễn nghĩa do cố đại lão Hòa thượng Thích Huệ Đăng diễn dịch :
“Xá-Lợi-Phất ! sao rằng Cực-lạc ?
Trong nước kia những các chúng sanh,
An vui các vật hiện thành,
Không điều khổ não nên rằng Lạc-bang.
Nầy Xá-Lợi ! Bên đàng Cực-lạc,
Có câu lơn bảy lớp nghiêm trang,
Bảy trùng la võng huy hoàng,
Bảy hàng bửu thọ như tràng hoa giăng.
Cây vòi vọi từng từng chớn chở,
Đường giăng giăng sáng rỡ báu châu.
Giáp vòng trong nước đâu
Đều là bốn báu sen mầu mà nên.
Cảnh thế ấy an tên Cực-lạc,
Xá-Lợi nầy ! Có các bửu trì,
Đều là bảy báu tinh kỳ,
Hiệp thành sáng rỡ dưới thì kim sa.
Tám công đức nước ra đầy nhẫy,
Ao bửu trì trong thấy cát vàng.
Bốn bên giai cấp có đàng :
Trên thì lầu các ngọc vàng nghiêm trang.
Sen đua nở trong ao rực rỡ,
Hoa tinh thần lớn tợ xe loan.
Bốn màu xanh, đỏ, trắng, vàng,
Màu nào sắc nấy phóng quang ánh trời.
Cảnh trong sạch nơi nơi thơm ngát,
Xá-Lợi ! Kìa Cực-lạc rất xinh.
Bao nhiêu công đức kinh dinh,
Hiệp thành một cảnh quang minh không lường.
Phật lại bảo tỏ tường : Xá-Lợi !
Nước Phật kia thường trổi nhạc trời.
Vàng ròng là đất khắp nơi,
Ngày đêm sáu khắc hoa trời rưới dâng.
Chừng nước ấy, thường chừng khi sáng,
Y kích đam dựng mạn-đà hoa,
Trải qua phương khác Phật Đà,
Mười muôn ức cõi tán hoa cúng dường.
Trong giây lác mười phương qua lại,
Phép thần thông vô ngại mấy hồi,
Như ai ăn bữa cơm rồi,
Trải đi khắp chốn đã hồi bổn bang.
Xá-Lợi-Phất ! Muôn ngàn công đức,
Bên nước kia đúng bực nghiêm trang.
Lại rằng : Xá-Lợi ! Lạc bang,
Có chim kỳ diệu trắng, vàng, đỏ, xanh.
Chim khổng tước, ca lăng, bạch hạc,
Anh võ, cùng cọng mạng, tần dà,
Ngày đêm sáu khắc xướng ca,
Dịu dàng thừa tiếng thuần hòa pháp âm.
Diễn những pháp ngũ căn, ngũ lực,
Thất Bồ-đề, Bát-chánh-đạo phần.
Diễn ca các pháp phân minh,
Người nghe phơi phới thêm sinh căn lành,
Đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”…

        Trong đại định Đức Phật quán chiếu thấy cảnh giới Cực-lạc như vậy đó. Đức Phật là phi hành gia vũ trụ lỗi lạc, không cần vệ tinh, phi thuyền không gian, thân ngồi một chỗ, chỉ một sát-na trong đại định tâm Ngài đã đi khắp ba nghìn đại thế giới, nhìn thấy hết các cảnh giới trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Mỗi cảnh giới Đức Phật chỉ ra, ngày nay chúng ta gọi là những thế giới, hay địa cầu, hành tinh vậy. Còn "cõi" hay "cảnh giới" là gọi theo phương tiện, vì thời phong kiến chỉ có vua mới thay trời được quyền phán truyền hư thật. Như nhà bác học Galilée thời cổ đại chỉ mới tuyên bố trái đất hình khối tròn đã bị chém đầu ngay. Vì ngày xưa con người quan niệm trái đất hình vuông phẳng, bầu trời hình tròn như một cái vung úp lại, nên mới có câu tục ngữ "trời tròn đất vuông", "Mẹ tròn con vuông". Các nhà nghiên cứu gọi giáo lý Phật là cửa ngỏ tiến vào nền khoa học hiện nay. Nhà bác học nguyên tử vĩ đại Albert Enstein của thế kỷ 19-20, là người ăn trường chay, đã nói : “Khoa học đang đi trên con đường Phật giáo đã đi qua… Khi khoa học kết thúc là lúc Phật giáo bắt đầu”. Tức là bằng lý thuyết Phật giáo đã khám phá tận cùng vũ trụ trước khoa học rất lâu và đang chờ khoa học thực nghiệm những khám phá đó để đồng nhất ý thức. Như vậy, theo Duy-thức-luận thì khoa học sẽ kết thúc thực nghiệm của mình vào thời điểm Phật Di-Lặc ra đời, Phật Di-Lặc là giáo chủ Tông Duy-thức. Khoảng tháng 7-2015, cơ quan hàng không vũ trụ của Mỹ (NASA) công bố đã tìm ra một hành tinh ngoài thái dương hệ như địa cầu chúng ta đang ở, có sự sống đã bị hủy diệt cách đây hàng triệu năm, muốn đến đó phải mất hàng triệu năm, nếu đi bằng phi thuyền không gian thì con người phải qua mấy mươi thế hệ mới đến. Gần đây NASA cũng công bố trên sao Hỏa nằm trong Thái dương hệ chúng ta trước đây cũng đã có sự sống dấu tích còn để lại. Trái đất chúng ta nếu không biết giữ gìn, nếu cứ đua nhau sản xuất vũ khí nguyên tử gây chiến tranh hủy diệt hàng loạt, gây ra các vụ nổ long trời lở đất, tham lam tàn phá môi trường, thì chắc chắn tương lai cũng như các địa cầu đó vậy thôi. Trái đất cũng như con người nếu ăn uống sinh hoạt tinh sạch điều độ sẽ ít bệnh tật, sống lâu, còn nếu ăn uống sinh hoạt tạp nhạp vô độ sẽ nhiều bệnh tật, mau chết.
         Trong khi đó Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni trong đại định đã nhìn thấy rõ tất cả và đã nói cách đây trên 2.500 năm ! Thực tế khoa học ngày nay đã chứng minh địa cầu chúng ta cách đây hàng triệu triệu năm cũng đã từng có mấy lần tận thế như vậy, dấu tích nền văn minh đó còn lưu lại dưới đáy biển sâu hay trên núi cao, trong lòng đất.  Mới đây, nhà khoa học người Nga Alexander Koltipin đã nghiên cứu dấu vết bí ẩn trong thung lũng Phrygian đã hóa thạch tại Thổ Nhĩ Kỳ, cho rằng tại địa cầu chúng ta đang ở thời cổ đại cách đây từ 12 đến 14 triệu năm đã có loại xe địa hình khổng lồ, là dấu ấn của nền văn minh lớn thời đó. Nên Phật giáo đã dùng từ "vô lượng kiếp" (tức không gian) để chỉ diễn tiến của sự sống ở cõi Ta-bà "từ vô thỉ đến vô chung" (tức thời gian) không thể nghĩ bàn, trí con người không thể thấy biết hết được. Hay trong kinh Cựu ước của Công-giáo nói về trái đất chúng ta đang sống cũng đã có lần tận thế, ông Nô-Ê đã đóng con tàu vĩ đại kịp chở một số người và vật thoát khỏi nạn hồng thủy cách đây hàng triệu năm, ngày nay khoa học đã tìm ra dấu tích của con tàu nầy trên một đỉnh núi cao vùng... (không nhớ).  

         Sanh về cõi Cực-lạc, theo kinh Vô-lượng-thọ nói, tùy theo kết quả và hạnh nguyện tu hành của mỗi chúng sanh ở cõi Ta-bà sau khi chết sẽ hóa sanh vào chín phẩm sen vàng (cửu phẩm liên hoa) ở cõi Cực-lạc, đó là :

         - Thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, thượng phẩm hạ sanh : thuộc các bậc đại thừa Bồ-Tát đã đắc pháp ở cõi Ta-bà hóa sanh về đây.
         - Trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung sanh, trung phẩm hạ sanh : thuộc các hạng nhị thừa Thánh nhơn đã giác ngộ ở cõi Ta-bà hóa sanh về đây.
         - Hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, hạ phẩm hạ sanh : thuộc các hạng ở cõi Ta-bà tạo ác nghiệp đã biết ăn năng sám hối tu hành được hóa sanh về đây.
         Mỗi cõi như vậy, như trên đã nói, ta nên hiểu một cách khoa học là gồm những địa cầu, hay thế giới, tức gồm ba cụm Thái-dương-hệ. Sự qua lại giữa những thế giới ở cõi Cực-lạc không phải ta đi bằng phương tiện máy móc như ở cõi Ta-bà, mà bằng ý tưởng không gian và thời gian rất ngắn, nghĩa là nghĩ muốn đến đâu là đến đó trong sát-na (trong nháy mắt), vì không còn thân thịt thối nặng nề nữa mà chỉ còn Linh hồn tinh tấn nhẹ nhàng nên không còn chịu sức hút nào của địa cầu. Ví như ta luyện võ hay tập thể thao từng bước tiến bộ có thể bay nhảy lên cao vậy. Sự đi lại đó trong kinh A-Di-Đà đã nói :
Hàng Bồ-Tát danh quán tự tại
Khi tham thiền vô ngại mấy hồi
Như ai ăn bữa cơm rồi
Trải đi khắp chốn đã hồi bổn bang...

        Chúng sanh tin ngưỡng tu hành chân chính theo chánh pháp của Phật ở cõi Ta-bà nầy, sau khi chết sẽ hóa sanh về cõi Cực-lạc, được thọ hưởng những duyên lành to lớn sau đây :
        1. Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật gia trì,
      2. Được hào-quang Phật thường chiếu đến linh thân làm cho tâm bồ-đề tăng trưởng,
        3. Thường được gần gũi các chư đại Bồ-Tát như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Phổ Hiền, Văn Thù,… và được các chư vị đó dạy dỗ tận tình,
      4. Luôn được nghe các loài chim Thánh nói pháp mầu, nghe nhạc âm vi diệu của thiên nhiên làm cho tâm thường an tịnh,
      5. Ăn uống, tắm rữa bằng các thức tinh tấn nuôi lớn thiện căn, là những vật-thực cam-lồ-vị tự nhiên hóa hiện theo ý muốn, không phải nấu nướng lo nghĩ gì cả,
     6. Luôn thường được nhất tâm bất loạn, chánh niệm thường hiện tiền, tức không bị tà vọng khuấy nhiễu,
      7. Thân thể như kim cương bất hoại, vượt ra ngoài sanh, già, bệnh, chết, sống lâu đến vô lượng kiếp, không thối chuyển (không trở lại cõi Ta-bà nữa). Từ đây tu tiếp cho đến khi thành Phật.

        Tóm lại, cõi Ta-bà là cõi thường đau khổ, cõi Cực-lạc là cõi thuần an vui. Người Phật tử chúng ta phát tâm bồ-đề kiên cố, nhẫn nhục tinh tấn tu hành ngay trong đời nầy  kiếp nầy, ngay từ bây giờ, để sau khi vãng sanh sẽ được hóa sanh về cõi Cực-lạc, tức ở một thế giới khác thế giới chúng ta, đời đời kiếp kiếp được ở gần gũi các chư Phật Bồ-Tát, từ đây tu tiếp để thành Phật, không còn sợ phải luân hồi về nơi vốn quá nhiều khổ đau nầy nữa. Muốn vậy, chỉ cần thực hành viên mãn 10 hạnh Phổ Hiền, lấy Tứ vô-lượng-tâm (từ bi hỷ xả) làm hành trang, lấy Bát-chánh-đạo làm bệ phóng, lấy ngũ giới làm thước đo, thì lo gì không đắc pháp ngay trong đời nầy !

        Cuối cùng, xin mượn mấy câu trong truyện thơ "Bích Câu Kỳ Ngộ" để kết thúc mạn đàm nầy :
“Sao bằng ngày tháng cung Tiên,
Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa.
Dọc ngang bốn bể, năm hồ,
Khắp trong ba cõi, chín châu mặc dầu.
Ra vào kim khuyết quỳnh lâu,
Treo tranh yên thủy, giắt bầu kiền khôn.
Đi về tuyết điếm hoa thôn,
Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.
Một ngày trong thú thanh nhàn,
Mấy trăm muôn cảnh nhân hoàn đọ sao !
Khuyên người sớm nghĩ lấy nao,
Gà lồng, hạc nội bên nào là hơn ?"...

        Với tâm nguyện mong muốn mọi người hiểu rõ thực tế sự khổ đau ở cõi Ta-bà và sự an vui vĩnh hằng ở cõi Cực-lạc, để cùng quyết tâm tu hành theo chánh pháp của Phật, nên không tránh khỏi thiếu sót thiển cận, con cúi xin trên chư Tôn đức hoan hỷ và chỉ bày thêm. Mong các chư vị Thiện tri thức quan tâm góp ý, bổ sung, bần đạo vô cùng tri ân.

Nam mô tiếp dẫn đạo sư A-Di-Đà Phật,
Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ-Tát,
Nam mô đại hạnh Phổ Hiền Bồ-Tát,
Nam mô thường tinh nhẫn Bồ-Tát ma ha tát.

                                        Bình Dương, tháng 8-2015
                                       NGUYÊN CHƯƠNG
                                        Mạn đàm




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét