ĐỂ THÀNH
MỘT PHẬT TỬ
Hay
NHỮNG ĐIỀU
TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO
CẦN BIẾT
VÀ CẦN LÀM
Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ
PL.2539 (1995)
Nguyên Chương trình bày, ấn tống
LỜI NÓI ĐẦU
Muốn thành một Phật tử trước hết phải quy y Tam Bảo. Và muốn quy y Tam Bảo một cách chân chính, tín đồ Phật Giáo sơ cơ cần phải biết mục đích Đạo Phật, phải hiểu con đường đưa đến mục đích ấy và thực hành đúng đắn những lời Phật khuyên bảo. Như thế sự quy y Tam Bảo mới thật có ích. Vì vậy Đạo Phật được mệnh danh là đạo Như Thật hay đạo của Sự Thật.
Mục đích của đạo Như Thật là gạn lọc ý nghĩ cho trong sạch, vì ý nghĩ quyết định mọi hành động thiện hay ác.
Để hiểu rõ sự liên quan giữa ý nghĩ và hành động, Phật dạy luật nhân quả, tức con đường mà xưa Phật đã trải qua, và ngày nay hằng trăm triệu con Phật trên khắp thế giới đang lần bước hướng theo.
Hành trình đòi hỏi nhiều cố gắng liên tục và một số hành trang tối thiểu. Muốn giữ cố gắng liên tục, điều quan trọng là phát lòng chánh tín ; còn hành trang tối thiểu chính là 5 giới cấm.
Tập sách nhỏ nầy không nhằm cao vọng nào khác hơn là hướng dẫn tín đồ sơ cơ về các yếu điểm căn bản nói trên, để cho sự quy y Tam Bảo đem lại lợi ích thiết thực nhằm mục đích xây dựng con người gây hạnh phúc cho gia đình và xã hội.
...........
Tác giả cẩn chí
Bài giảng dưới dạng
HỎI ĐÁP
1/. HỎI : Một tín đồ Phật Giáo trước hết phải hiểu và phải làm những gì ?
ĐÁP : Trước hết là phải hiểu rõ những yếu điểm căn bản của Phật dạy, thứ đến là phát lòng chánh tín Tam Bảo, cuối cùng là thực hành 5 điều răn (Ngũ giới) trong đời sống hằng ngày của mình.
2/. HỎI : Vì sao phải theo thứ tự ấy ?
ĐÁP : Vì phàm làm việc gì, phải hiểu mục đích của việc ấy. Có thật hiểu mới phát được lòng chánh tín và chí tâm thực hành để đem lại lợi ích cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Phật dạy : “Tin ta mà không hiểu ta là báng bổ ta”.
3/. HỎI : Những yếu điểm căn bản của Phật dạy là những điểm nào ?
ĐÁP : Không làm các điều ác. Siêng làm các điều lành. Giữ ý nghĩ trong sạch.
4/. HỎI : Thế nào là ác ?
ĐÁP : Là những việc làm, lời nói, ý nghĩ không hợp lý, hại mình, hại người cả trong hiện tại lẩn tương lai.
5/. HỎI : Thế nào là thiện ?
ĐÁP : Là những việc làm, lời nói, ý nghĩ hợp lý, lợi mình, lợi người cả trong hiện tại lẩn tương lai.
6/. HỎI : Thế nào là ý nghĩ trong sạch ?
ĐÁP : Là ý nghĩ hợp với lẽ phải, không tham giận kiêu căng, không ganh ghét đố kỵ, không gây hậu quả khổ đau cho mình và cho người. Ý nghĩ trong sạch khi phát hiện ra nơi hành động thì hành động chân chính, khi phát hiện ra nơi lời nói thì lời nói hiền hòa, làm cho đời mình và đời người đều an vui tươi đẹp.
7/. HỎI : Làm lành lánh dữ là những điều bất luận tôn giáo nào hay học thuyết nào cũng dạy, đâu có riêng gì Phật Giáo ?
ĐÁP : Vâng, đúng thế. Nhưng nói là một việc, còn có thực hành đúng như lời nói được hay không lại là một việc khác. Đó là chưa nói đến sự làm lành, lánh dữ ấy có hợp lý hay không. Vì nếu người đề xướng lên một lý thuyết mà chưa phải là đấng giác ngộ chân chính thì lý thuyết ấy khó mà hoàn toàn được.
8/. HỎI : Bằng chứng đâu để biết lý thuyết đúng và thực hành cũng đúng như lý thuyết ?
ĐÁP : Cứ xem lịch sử đời sống vị Tổ sáng lập Tôn giáo và lịch sử truyền bá Tôn giáo ấy thì biết.
9/. HỎI : Đời sống của Đức Phật như thế nào?
ĐÁP : Nhất nhất phù hợp với lời Ngài dạy, phù hợp một cách hoàn toàn đến nổi các học giả khảo cổ Tây phương khi mới nghiên cứu Phật Giáo tưởng Đức Phật là một nhân vật hoang đường không thật có trong lịch sử. Dần dần họ mới hiểu đó là sự thật, đó là chân lý.
10/. HỎI : Còn lịch sử truyền giáo của Phật Giáo ?
ĐÁP : Một lịch sử trong trắng, chưa từng gây đau thương cho một dân tộc nào, chưa từng gây chiến tranh với ai, cho dù là thánh chiến. Ngược lại Phật Giáo truyền bá đến đâu thì hòa bình đến đó.
11/. HỎI : Như vậy, ta phải kết luận về Phật Giáo như thế nào ?
ĐÁP : Đức Phật và môn đồ của Ngài trải qua gần 26 thế kỷ là những gương sáng của việc làm lành lánh dữ.
12/. HỎI : Nhờ đâu Phật Giáo giữ được trọn vẹn như thế ?
ĐÁP : Nhờ yếu điểm đặc biệt thứ ba : giữ ý nghĩ trong sạch. Ý nghĩ soi đường cho hành động, hướng dẫn hành động ; ý nghĩ đã trong sạch thì hành động tất nhiên phải thuần thiện.
13/. HỎI : Như thế, Phật Giáo hẵn phải đặc biệt lưu tâm đến vai trò của ý nghĩ?
ĐÁP : Đúng như thế. Thiên kinh vạn quyển hiện đang lưu truyền đều dạy cách phân biệt thế nào là tư tưởng chân chánh, thế nào là tư tưởng tà vạy ; tám vạn bốn ngàn pháp môn tu hành đều nhằm mục đích gạn lọc ý nghĩ cho trong sạch mà thôi.
14/. HỎI : Muốn thực hiện 3 yếu điểm trên, trước hết phải làm gì ?
ĐÁP : Trước hết phải phát lòng chánh tín Tam Bảo. Trong kinh Phật dạy : “Tín vi đạo nguyện công đức mẫu”, nghĩa là tín là nguồn gốc của đạo, là mẹ đẻ của phước đức.
15/. HỎI : Thế nào là chánh tín ?
ĐÁP : Là tin những điều chân chính, hợp lý, có lợi ích thiết thực, như tin gây nhân tốt thì sẽ hưởng quả tốt, nhân nào quả nấy như hình với bóng. Không tin những điều mơ hồ viễn vông, không hợp lý và không lợi ích thiết thực, như tin ma quỉ, thần quyền xằng bậy.
16/. HỎI : Thế nào là Tam Bảo ?
ĐÁP : Là ba ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng.
Phật là tiếng gọi tắt chữ Phật-Đà trong Phạn ngữ, chỉ những bậc Thánh nhân đã hoàn toàn giác ngộ và nhờ đó đã hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Tiếng Trung Hoa dịch là Giác-giả.
Pháp là danh từ Trung Hoa dịch từ chữ Đạt-Ma trong tiếng Phạn, chỉ giáo lý Phật, vì giáo lý ấy thể hiện đúng đắn chân lý vũ trụ nhân sinh, dùng làm khuôn vàng, thước ngọc trong việc diệt trừ tận gốc đau khổ và đem lại an vui vĩnh viễn cho nhân loại.
Tăng là tiếng gọi tắt chữ Tăng-Già trong Phạn ngữ, chỉ một đoàn thể từ 4 người trở lên, tu theo giáo pháp Phật và sống theo tinh thần lục hòa ; Trung Hoa dịch là Hòa hiệp chúng.
Phật, Pháp, Tăng là mục tiêu mà mọi Phật tử nhắm đến.
17/. HỎI : Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu ?
ĐÁP : Thế thường cho vàng bạc châu báu hay quyền cao chức trọng là quý, nhưng thử hỏi khi gặp cảnh đời tang thương dâu bể như thiên tai, dịch họa, bệnh tật,… thì các món ấy có làm cho ta vơi bớt nỗi khổ không ? Hay lại càng gây thêm khổ lụy cho ta nữa ? Đó là chưa nói vinh hoa phú quý rồi cũng có ngày tiêu tan, vàng bạc châu báu nay tụ mai tán, mấy ai giữ được vĩnh viễn. Trong cõi đời vô thường nầy, cảnh nay lên xe mai xuống ngựa không phải là hiếm. Duy có Phật, Pháp, Tăng mới thường trụ, thường an vui, thường chân thật, thường thanh tịnh và thường cứu vớt ta mà không phân biệt thân sơ thù bạn. Vì bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh và đại nguyện độ sanh ấy nên gọi Phật, Pháp Tăng là ba ngôi báu vậy.
18/. HỎI : Chánh tín Tam Bảo có lợi ích gì ?
ĐÁP : Lợi ích chánh tín Tam Bảo không thể nói hết và không thể nghĩ bàn được.
19/. HỎI : Xin nói một vài lợi ích của sự chánh tín Phật ?
ĐÁP : Trong kinh nói : “Chư Phật trong mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ hiền thương nhớ con”. Mẹ thương nhớ con như vậy, nay con đáp ứng lại lòng thương vô biên của mẹ, đặt hết tin tưởng vào trí sáng suốt vô lượng của mẹ thì khác nào như người đi đêm mà có đuốc soi đường, qua nơi nguy hiểm mà có người dìu dắt, không còn lo lắng sợ hãi gì nữa.
20/. HỎI : Còn lợi ích chánh tín Pháp ?
ĐÁP : Phật dạy hễ tạo nhân lành thì hưởng quả tốt, tạo nhân dữ thì chịu quả xấu. Luật nhân quả là một luật xác thật. Phật lại dạy : “Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành”, nghĩa là đều có khả năng thành Phật. Vậy nếu tin và thực hành đúng lời Phật dạy thì nhất định sẽ hết mê được ngộ, hết khổ được vui.
21/. HỎI : Giáo pháp Phật dạy chỉ có chừng ấy thôi sao ?
ĐÁP : Còn nhiều, rất nhiều. Nhưng chung quy cũng không ngoài nhân quả.
22/. HỎI : Lợi ích chánh tín Tăng như thế nào?
ĐÁP : Tăng là những vị thay Phật tiếp tục công việc giáo hóa giống như Phật đã làm lúc còn tại thế. Đã thay Phật thì Tăng tức là Phật. Về mặt gây phước đức, lợi ích chánh tín Phật như thế nào thì lợi ích chánh tín Tăng như thế ấy.
23/. HỎI : Khi đã phát lòng chánh tín rồi thì còn phải làm gì nữa ?
ĐÁP : Phải quy y Tam Bảo.
24/. Thế nào là quy y ?
ĐÁP : Quy nghĩa là quay về, y nghĩa là nương tựa. Chúng sanh vì mê lầm nên bị dục vọng lôi cuốn khiến bị chìm đắm trôi lăn mãi trong bể khổ luân hồi, không nơi nương tựa, khác nào đứa con hoang mãi mê theo tiếng gọi giang hồ du đãng, lăn mình vào chốn bụi trần đắng cay, nay bỗng giác tỉnh, muốn chấm dứt cuộc sống ba đào trôi nổi, quay về với gia đình nương tựa, nên gọi là quy y.
25/. HỎI : Thế nào gọi là quy y Phật Bảo ?
ĐÁP : Là quay về nương tựa đức Phật, thờ đức Phật làm thầy, thề suốt đời không thờ ngoại đạo.
26/. HỎI : Thế nào gọi là quy y Pháp Bảo ?
ĐÁP : Là quay về nương tựa giáo lý đức Phật, lấy giáo lý ấy làm đuốc soi đường, thề suốt đời không nghe lời dụ dỗ của tà ma ngoại đạo truyền bá giáo lý quàng xiên.
27/. HỎI : Thế nào gọi là quy y Tăng Bảo ?
ĐÁP : Là quay về nương tựa Tăng-Già, xem Tăng-Già như Phật còn tại thế, đủ nêu gương sáng cho ta bắt chước noi theo, thề suốt đời không thân cận người xấu xa, kẻ độc ác.
28/. HỎI : Nghe nói có vô lượng chư Phật trong mười phương thế giới, vậy nên thờ Phật nào là hơn ?
ĐÁP : Đã là giác ngộ như nhau thì đức Phật nào cũng có trí huệ viên mãn và thương xót chúng sanh như nhau. Tùy theo cơ cảm chúng sanh có cơ duyên với đức Phật nào thì thờ đức Phật ấy. Như người tu Tịnh độ thì thờ đức Phật A Di Đà, người tu Mật tông thì thờ đức Phật Đại-Nhật (Phật Tì-Lô-Giá-Na),… Nhưng nếu thờ đức Phật Thích-Ca thì đầy đủ hơn cả, vì ngài là giáo chủ cõi ta-bà chúng ta trong hiện tại (là người đại diện tất cả các chư Phật tại cõi ta-bà).
29/. HỎI : Đức Phật Thích Ca là nhân vật có thật trong lịch sử hay chỉ nghe truyền thuyết nói lại ?
ĐÁP : Ngài là nhân vật lịch sử, ra đời cách đây trên 2.500 năm, tên là Tất-Đạt-Đa, con vua Tịnh-Phạn và hoàng hậu Ma-Da ở nước Ca-Tì-La-Vệ thuộc miền Bắc Ấn Độ (nay là nước Népal). Năm 19 tuổi, sắp nối ngôi vua cha thì ngài bỏ kinh thành xuất gia cầu đạo. 30 tuổi ngài thành chánh giác dưới gốc cây Tất-Bát-La tức cây bồ-đề, hiệu là Thích-Ca-Mâu-Ni Phật. Sau khi thành Phật, ngài thuyết pháp khắp xứ Ấn Độ, cứu độ vô lượng chúng sanh thoát ly đau khổ. 80 tuổi ngài nhập diệt tại rừng Sa-La Song-Thọ trong lãnh thổ nước Câu-Thi-Na. Giáo lý ngài dạy như thế nào thì cuộc đời ngài thực hành như thế ấy.
30/. HỎI : Giáo lý ấy hiện còn đầy đủ không ?
ĐÁP : Còn giữ nguyên vẹn, gồm đủ 3 tạng : Kinh, Luật, Luận, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trung Hoa dịch đầy đủ ra Hán văn từ lâu gọi là Đại Tạng Trung Hoa. Việt Nam ta chỉ mới dịch ra một số thôi. Giáo lý ấy, tiếng Phạn gọi là Đạt-Ma, Trung Hoa dịch là Pháp-tạng.
31/. HỎI : Còn Tăng Già, sao Trung Hoa dịch là Hòa Hiệp Chúng ?
ĐÁP : Vì chữ Tăng-Già trong tiếng Phạn chỉ chúng đệ tử của Phật gồm từ 4 người trở lên, sống hòa hiệp với nhau theo tinh thần lục hòa :
1. Thân hòa đồng trú : nghĩa là sống hòa hiệp, ăn ở cùng nhau.
2. Khẩu hòa vô tránh : nghĩa là miệng hòa hiệp, không tranh cải nhau.
3. Ý hòa đồng duyệt : nghĩa là ý hòa hiệp, thuận thảo với nhau.
4. Giới hòa đồng tu : nghĩa là cùng chỉ bày kiến giải cho nhau.
5. Pháp hòa đồng thụ : nghĩa là cùng thọ Pháp như nhau.
6. Lợi hòa đồng quân : nghĩa là cùng san sẻ lợi lộc như nhau.
32/. HỎI : Không quy y Tam Bảo có hại gì không ?
ĐÁP : Có rất nhiều điều hại. Trước tiên là không được dịp thân cận Tăng để chỉ bày, bảo ban phương pháp tu hành theo chánh đạo. Thứ lại là không được thân cận Pháp để tìm hiểu và phân biệt chánh tà chân ngụy. Sau hết là không gây được thiện duyên với Phật để mong Phật cứu độ. Trong kinh dạy : không quy y Phật thì sẽ đọa địa ngục, không quy y Pháp thì sẽ đọa ngạ quỷ, không quy y Tăng thì sẽ đọa súc sanh.
33/. HỎI : Vì sao vậy ?
ĐÁP : Vì nguồn gốc của đau khổ luân hồi là tham, sân, si. Không quy y Phật, không bắt chước đức từ bi của Phật thì sân hận mỗi ngày mỗi tăng, mà sân hận là nguyên nhân của địa ngục. Không quy y Pháp, không tìm hiểu Pháp để phân biệt chánh tà thì tham lẩn dễ dấy, mà tham lẩn là nguyên nhân của ngạ quỷ. Không quy y Tăng, không có gương thanh tịnh hiền hòa cho ta bắt chước và không người chỉ lối đưa đường cho ta tránh ác làm lành thì ngu si ngày càng dày đặc thêm, mà ngu si là nguyên nhân của súc sinh.
34/. HỎI : Muốn quy y Tam Bảo phải làm như thế nào ?
ĐÁP : Tìm một vị tu hành giới hạnh trang nghiêm, học thức uyên bác, thay mặt chúng tăng bạch Phật làm lễ 3 pháp quy y trước điện Phật. Trong lúc nghe 3 pháp quy y thì lòng mình nhất tâm hướng về Tam Bảo và thiết tha phát nguyện giữ 3 pháp ấy trọn đời, dù gặp hoàn cảnh nào cũng không biến đổi. Như thế lễ quy y mới thành tựu.
35/. HỎI : Tin Phật mà chưa quy y có được gọi là Phật tử không ?
ĐÁP : Chỉ bắt đầu từ giờ phút nhất tâm thọ trì thanh tịnh truyền thọ mới chính thức là một Phật tử, hay nói đúng hơn, một ưu-bà-tắc hoặc một ưu-bà-di.
36/. HỎI : Ưu bà tắc, ưu bà di là gì ?
ĐÁP : Là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là cận sự nam, cận sự nữ, hoặc thiện nam, tín nữ. Là đàn ông hay đàn bà gần gủi Tam Bảo, phụng sự Tam Bảo và được Tam Bảo luôn ủng hộ.
37/. HỎI : Thọ trì Tam Quy rồi, người Phật tử có cần làm gì khác nữa không ?
ĐÁP : Trên con đường hướng đến mục tiêu Tam Bảo, tam quy như hai mắt, ngũ giới như hai chân. Mắt hướng nhìn mục tiêu nhưng đồng thời chân phải cất bước mới mong đạt được mục tiêu ấy. Ngũ giới là bước đầu của địa vị Thánh hiền.
38/. HỎI : Ngũ giới là những gì ?
ĐÁP : là 5 giới cấm :
1. Không sát sanh,
2. Không trộm cắp,
3. Không tà dâm,
4. Không nói dối,
5. Không uống rượu, bia, không dùng chất gây nghiện.
39/. HỎI : Thế nào là không sát sanh ?
ĐÁP : Là không manh tâm và không giết hại sanh mạng người và loài vật. Phải luôn luôn tôn trọng và cứu giúp sanh mạng muôn loài. Tội ác lớn không gì bằng giết hại, công đức lớn không gì bằng cứu giúp.
40/. HỎI : Thế nào là không trộm cắp ?
ĐÁP : Là không trực tiếp hay gián tiếp lừa gạt để lấy của người. Phải cố gắng bố thí cho muôn loài. Họa tai lớn không gì bằng tham lam, phước báu lớn không gì hơn bố thí.
41/. HỎI : Thế nào là không tà dâm ?
ĐÁP : Là không lang chạ với vợ, chồng người, hoặc với người không phải vợ, chồng mình. Trái lại, cần phải đoan chính trinh lương với tất cả người khác phái.
42/. HỎI : Thế nào là không nói dối ?
ĐÁP : Là không nói lời độc ác, không nói lời thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời gian trá, như có nói không, không nói có làm hại người. Phải nói lời chân thật hiền hòa, lợi mình lợi người.
43/. HỎI : Thế nào là không uống rượu ?
ĐÁP : Rượu là thứ làm loạn tinh thần, làm mất trí tuệ là báu vật của người tu. Trong hiện tại, rượu là nguyên nhân gây ra bệnh tật. Trong tương lai, rượu là nguyên nhân của ngu si mờ tối. Trong kinh ví rượu dữ hơn thuốc độc. Ngoài ra cũng không được dùng các chất kích thích khác làm hại thần kinh như thuốc phiện, gia vi hành, tỏi, ớt, tiêu,…
44/. HỎI : Công dụng thiết thực của ngũ giới là gì ?
ĐÁP : Tạo nên những con người có tư cách, có nhân phẩm, được mọi người kính yêu. Trong gia đình, đó là cha mẹ hiền, con cháu thảo ; ngoài xã hội, đó là công dân tốt. Nếu toàn thể nhân loại giữ được 5 giới cấm thì thế giới sẽ hòa bình an lạc.
45/. HỎI : Giữ một lần cả 5 giới e khó chăng?
ĐÁP : Người giữ được trọn 5 giới là toàn phần thiện nam, tín nữ. Người giữ được 3 giới gọi là bán phần thiện nam, tín nữ, Người giữ được 2 giới gọi là thiểu phần thiện nam, tín nữ. Có thể phát nguyện thọ trì lần lần từ 2 đến đủ 5 giới rồi giữ suốt đời.
46/. HỎI : Nếu không thọ trì được giới nào cả thì sao ?
ĐÁP : Chả lẻ một Phật tử đã thọ giới quy y Tam Bảo rồi mà còn giữ nhiều tánh xấu xa độc ác như vậy sao !
47/. HỎI : Đã phát nguyện thọ giới nhưng bất đắc dĩ hoặc vô tình phạm phải thì làm sao ?
ĐÁP : Phải sám hối trước Tam Bảo và nguyện không tái phạm. Điều cốt yếu là trong khi sám hối, lòng mình phải tự thấy xấu hổ và phải thành thật ăn năn thì tội lỗi mới tan tiêu và giới thể mới trở lại thanh tịnh như khi chưa phạm.
48/. HỎI : Chỉ giữ đúng 5 giới cấm mà không quy y Tam Bảo có được không ?
ĐÁP : Quy y Tam Bảo là chánh kiến, thọ trì 5 giới là chánh giới. Kinh dạy chánh kiến quan trọng hơn chánh giới. Nếu chỉ giữ 5 giới mà không quy y Tam Bảo thì tương lai cũng hưởng được phước báu trong cõi trời hoặc cõi người, nhưng vì không được Tam Bảo hướng dẫn thì không khéo phước báu càng cao đọa lạc càng sâu.
49/. HỎI : Quy y Tam Bảo và thọ trì 5 giới rồi, có nên khuyên người khác cùng làm như mình không ?
ĐÁP : Đó là một công đức rất lớn. Khuyên thêm được một người quy y giữ giới là bớt cho xã hội một sự xấu xa đau khổ. Kinh dạy : “Trong tất cả sự cúng dường, cúng dường chánh pháp là hơn hết”. Mà cúng dường chánh pháp là tự mình sống theo chánh pháp và khuyên mọi người sống theo chánh pháp vậy.
50/. HỎI : Như trên kia nói, chánh tín là tin nhân quả. Vậy nhân quả là gì ? Có liên quan gì với 5 giới không ?
ĐÁP : Rất liên quan nhau. Nhưng trước hết hãy tìm hiểu nhân quả là gì đã.
Nhân là nguyên nhân, như cái mầm cây trong hạt ; quả là kết quả, như cái trái trên cây. Trái do mầm sanh, mầm nào sanh trái nấy. Mầm ngọt sanh trái ngọt và ngược lại, mầm tốt sanh trái tốt và ngược lại. Có nguyên nhân ắt có kết quả. Luật nhân quả chi phối toàn thể cuộc sống và bao trùm khắp vũ trụ. Không có cái gì thoát ra ngoài luật nhân quả được. Ngay giáo pháp vĩ đại của Phật cũng chỉ thuyết minh lý nhân quả mà thôi.
51/. HỎI : Còn liên quan giữa luật nhân quả và 5 giới ?
ĐÁP : Không sát sanh, trái lại còn phóng sanh, đó là nguyên nhân của quả sống lâu không bệnh tật. Không trộm cắp, trái lại còn bố thí, đó là nguyên nhân của quả giàu sang bền vững. Không tà dâm, đó là nguyên nhân của quả gia đình hạnh phúc sum vầy. Không nói dối, đó là nguyên nhân của quả được người tin yêu, không bị lường gạt. Không uống rượu, đó là nguyên nhân của quả sức khỏe trí tuệ. Đây mới chỉ là một ít kết quả thông thường mà thôi.
52/. HỎI : Sao có người từ nhỏ đến lớn siêng năng làm ăn, không phạm 5 giới mà suốt đời vẫn lam lũ ?
ĐÁP : Đó là kết quả của nguyên nhân trong kiếp quá khứ. Luật nhân quả rất phức tạp chứ không đơn giản như người thường quan niệm. Có nhân quả đồng thời, có nhân quả dị thời, có nhân quả chuyển biến,… Nhân quả đồng thời như tay gỏ thì tai liền nghe. Nhân quả dị thời như trồng lúa hôm nay thì ba tháng sau mới có ăn, hoặc như
việc làm bất cẩn từ năm trước qua năm sau mới thấy tai hại. Nhân quả chuyển biến như giống cây tốt mà trồng trên đất xấu thì sinh quả sẽ biến ra xấu.
53/. HỎI : Mọi sự việc trên đời nầy nếu ứng theo nhân quả thì cha tu cha hưởng, con tu con hưởng, hai bên có dính líu gì nhau ?
ĐÁP : Lý đương nhiên như thế. Nhưng ở đời mọi cuộc hội ngộ đều do túc duyên mà thành. Một người sở dĩ thác sanh vào một gia đình nào đó, tất nhiên phải thuộc loại đồng thanh đồng khí với nhà ấy. Có những gia đình đông con mà đứa thì thông minh hiền hòa, có đứa thì ngu đần hung ác. Đó là do hành vi tâm tính của cha mẹ lúc thọ thai. Nếu thọ thai trong thời gian cha mẹ làm được nhiều điều lành thì đứa con thác sanh lúc đó sẽ là đứa con tốt, ngược lại thì sẽ là đứa con xấu. Cho nên cha mẹ ăn ở phước đức thì sinh con mới hiếu thảo thông minh.
54/. HỎI : Luật nhân quả do ai đặt ra ?
ĐÁP : Đó là định luật tự nhiên hình thành từ khi có sự hoạt động trong vũ trụ, không ai đặt ra cả. Phật nhờ giác ngộ mà phát hiện ra được định luật ấy để soi đường cho chúng sanh. Đã là định luật thì bất biến cải, hể tạo nhân tốt thì sanh quả tốt, tạo nhân xấu thì hưởng quả xấu, không trời thần quỉ vật nào cưởng lại hoặc xen vào thưởng phạt hết.
55/. HỎI : Thế thì thờ Phật và lạy Phật để làm gì ?
ĐÁP : Để tỏ lòng biết ơn Phật, để hằng ngày chiêm ngưởng noi gương đức Từ Bi Hỷ Xả của Phật, nhờ đó ta huân tập dần dần các đức sáng ấy làm cho ta mỗi ngày mỗi gần Phật hơn. Ngoài ra, lạy Phật còn là một cách tu luyện để thanh tịnh hóa 3 nghiệp thân, khẩu, ý. Khi lạy Phật, thân đứng, quỳ ngay ngắn tức là thân thanh tịnh. Khi niệm Phật miệng đoan chính tức là khẩu thanh tịnh. Khi ý nghĩ đến 4 đức Từ Bi Hỷ Xả mà không tạp loạn tức là ý thanh tịnh vậy. Vì tội lỗi là do 3 nghiệp thân, khẩu, ý sanh ra, nay 3 nghiệp thanh tịnh tức tội diệt phước sanh.
56/. HỎI : Niệm Phật có lợi ích gì ?
ĐÁP : Niệm Phật tức là nhớ nghĩ đến Phật, nhớ nghĩ đến những đức tốt của Phật. Đã nhớ nghĩ đến Phật tất nhiên không nhớ nghĩ đến gì khác nữa, giúp cho ý nghiệp thanh tịnh. Pháp môn niệm Phật hay pháp môn tịnh độ là pháp môn huyền diệu và dễ tu nhất.
57/. HỎI : Tụng kinh có ích lợi gì ?
ĐÁP : Tụng kinh cũng như niệm Phật, lợi ích thật không thể nghĩ bàn. Khi đọc tụng lời Phật dạy, tâm ta huân tập đức thanh tịnh sáng suốt của Phật, tự nhiên mỗi ngày ta gần Phật một bước. Tụng niệm mãi cho đến khi ta và Phật hiệp đồng nhất như, tâm ta tức tâm Phật. Đó là lợi ích thiết thực của tụng kinh, niệm Phật vậy.
58/. HỎI : Thế thì vì sao còn phải ăn chay ?
ĐÁP : Tất cả sinh vật đều có tình thức như ta, đều biết khổ đau vui buồn như ta, đều tham sống sợ chết như ta. Chẳng lẻ ta lại đang tâm giết hại sinh vật khác trong khi chúng ta cũng đang ê chề đau khổ ư ? Vì vậy Phật dạy nên ăn chay để không sát sanh, để tỏ lòng thương xót loài vật. Người Phật tử khi đã quy y rồi thì không nên sát sanh, ăn chay là cách tốt nhất để tránh trực tiếp hoặc gián tiếp sát sanh vậy.
59/. HỎI : Đạo Phật có thừa nhận là có ma quỉ không ?
ĐÁP : Ngoài nhân quả ra, đạo Phật không thừa nhận gì cả. Nhưng hễ lòng người muốn cái gì (nhân) thì ắt có cái ấy (quả). Nếu lòng muốn nhớ nghĩ đến Phật thì Phật hiện, nghĩ đến ma thì ma hiện. Trong kinh có chép một chuyện ma như sau : có một phụ nữ bị ma quỉ hãm hiếp, đã dùng trăm phương nghìn kế để trừ khử nhưng không có kết quả. Sau nhờ gặp một vị Tỳ kheo truyền cho 3 pháp quy y, bà ta ngày đêm thành tâm tụng đọc 3 pháp ấy, tự nhiên không còn thấy ma quỉ nữa và trở lại sống an vui như xưa.
60/. HỎI : Khi tụng kinh niệm Phật, muốn cầu Phật cứu giúp cho một việc gì, như thế có được không và có đúng chánh pháp không ?
ĐÁP : Nếu mình đem hết tín thành vận lòng mình như lòng Phật để gây nhân tốt thì tự nhiên Phật với mình cảm thông nhau, quả tốt sẽ do đó mà có. Muốn cho công đức thành tựu viên mãn, điều cốt yếu là phải giữ ý nghĩ trong sạch, không làm các điều ác, siêng làm các việc lành, như bài kệ Phật dạy trong Giới Kinh :
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
(Không làm các điều ác, siêng làm các việc thiện,
luôn giữ ý nghĩ thanh tịnh trong sạch, đó là lời Phật dạy)
(Không làm các điều ác, siêng làm các việc thiện,
luôn giữ ý nghĩ thanh tịnh trong sạch, đó là lời Phật dạy)
và
Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
*** HẾT ***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét