Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015



Giải thích
Kinh Hoa Nghiêm

Phẩm
NHẬP PHÁP GIỚI

Soạn giả : Hòa thượng THÍCH TRÍ QUẢNG
Toát yếu : Tỳ kheo ni HẠNH LÂM
Chú thích : NGUYÊN CHƯƠNG



KINH HOA NGHIÊM
-I-
           Hoa-Nghiêm (1) minh họa bức tranh cầu đạo 52 chặng đường (Thiện-Tài là biểu trưng) : 10 Tín, 10 Trụ, 10 Hạnh, 10 Hồi hướng để tiến lên 10 Địa, Đẳng giác và Diệu giác.
      Khởi đầu là kiên cố niềm tin. Tin Phật, tin Pháp, tin tâm mình có khả năng vươn lên đỉnh cao Phật quả. Trong sinh tử, phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng điên đảo bao vây. Phải có niềm tin vững vàng, gặp khó khăn mà chẳng lao đao lui bước.
          Kế đến an trụ Chân tâm. Dù ba đào sóng bủa vẫn chiếu soi thấy 5 uẩn là không (vượt ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Xuôi theo dòng thì bị cuốn trôi ra biển khổ đã đành, mà chống với sức nước dữ cũng có cái nguy vỡ thuyền giác hoàn tục. Muốn ta vẫn giữ được ta, phải chí tâm an trụ trong Phật pháp.
Diệt trừ phiền não trùng tăng bệnh,
Xu hướng chân như tổng thị tà.
Tùy thuận thế duyên vô quãi ngại,
Niết bàn sanh tử đẳng không hoa.
          Vì vậy gặp nông dân, trí thức, công nhân, học sinh, sinh viên,… ta đứng ở vị trí của họ (hằng thuận) mà nói chuyện, cùng nhau cảm thông. Không một nơi chốn thế gian nào mà không tham dự, nhưng với tâm như hư không, chẳng vướng dính dù gặp Thánh hay phàm. Sống tùy duyên mà vẫn trụ ở lý chân không, sẽ cảm nhận một thú vị kỳ diệu. Các Bồ Tát tâm trụ Pháp hiểu nhau dễ dàng. Khi gần thì thanh tịnh hòa hợp, khi xa vẫn cảm thông hộ niệm cho nhau. Đây là pháp giới Hoa-Nghiêm. Đã nhập được rồi tức là bắt đầu được nếm ý vị thường-lạc-ngã-tịnh, không thể giải thích cho kẻ ngoài được.
       Sang giai đoạn 3 : 10 Hạnh (Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh Phật chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh, phổ giai hồi hướng) thuộc phần hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa. Lộ trình tu tâm của Hoa-Nghiêm (1) không thể thấy biết bằng trí thức 5 uẩn. Pháp hành bên trong tự nhiên tác động qua tâm chúng sanh. Tu 10 hạnh, ngồi yên một chỗ, không làm gì nhưng tâm hòa với muôn loài, ảnh hưởng bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn). Từ từ chúng sanh sẽ tự tìm đến. Đức Phật ngồi dưới gốc Bồ-đề, không cử thân động niệm mà chẳng chúng sanh nào không cứu độ. Tâm vận dụng có tác động đến tất cả hữu tình vô tình, giải oán hiềm, gây thiện cảm. Vì không có một hiện hữu nào riêng biệt. Vạn pháp có tương quan mật thiết với nhau như những làn sóng trong ao nước, cây cối trong rừng. Hoa-Nghiêm chủ trương một là tất cả, lấy tâm làm chính yếu, phát huy tâm mình ngang qua tâm muôn vật. Đi đến kết quả là hiểu và điều phối được muôn vật. Chân tâm thanh tịnh thường hằng của chúng sanh là Phật tánh. Tâm Phật, tâm mình, và tâm chúng sanh đồng chung trong  pháp giới Hoa-Nghiêm. Tâm trí người tu từ từ sáng lên do đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na (1) biến chiếu hội nhập. Ai không nhận ra điều nầy, kinh Pháp-Hoa gọi là mất bản tâm. Tổ quở là xả thực tế, nhận không hoa (tức hư không hoa đốm - lấy ảo làm thật - NC).  
        Ai cũng đã từng kinh nghiệm : nếu ta đem tâm từ bi hướng về một con vật, nó sẽ mừng rỡ quyến luyến ta ngay. Kinh Hoa-Nghiêm (1) dạy chúng ta tạo tình cảm tương quan để hài hòa vui sống với muôn loài.
        Nếu chúng ta chỉ muốn gần người tài giỏi, đức hạnh, giàu sang, thế lực để nhờ vã, mong muốn nầy sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Còn hoàn cảnh hiện tại của mình thì lại không vừa lòng. Do đây mà phát bực bội, sân si, làu bàu với người nầy, sỉ vả người kia, ghét bỏ người nọ, là tự mình tô bồi chất liệu địa ngục trong tâm.
      Chi bằng ngay trong hoàn cảnh hiện tại, tập sống thiểu dục (ít ham muốn)tri túc (biết đủ), đem từ - bi - hỷ - xả (Tứ vô lượng tâm) vào cuộc đời. Bốn tâm nầy có thể phát triển đến vô lượng. Không chỉ là một thái độ mà là một sức mạnh chuyển hóa. Dùng lòng từ bi để hóa giải những hung dữ, những mù quáng, những nham hiểm, là những sự việc được kể bàn bạc trong lịch sử đức Thế Tôn. Liệt vị Tổ sư tu ở trong rừng đã chuyển hóa cọp beo rắn độc trở thành thuần hậu. Quả thật, từ-bi-hỷ-xả là sức mạnh của những nhân cách đạo đức, có được là do ánh sáng trí huệ siêu phàm.
        Kinh Hoa-Nghiêm mở ra cho nhân loại một nền minh triết sâu thẳm,  khơi suốt nguồn từ bi hỷ xả,  nâng con người lên trên thân phận thú vật, quyết định con đường thánh thiện, hướng về một tương lai chói lọi là thành Phật.

-II-
       Đã tạo được quan hệ với mười phương chúng sanh bằng vô tác diệu lực, nay tu pháp Hồi hướng, nổ lực đầu tư vào 3 vấn đề : Trí tuệ, Chúng sanh  Chân như thật tướng.
       1- Vô-thượng Bồ-đề quan trọng nhất là Trí tuệ quyết định tất cả. Khuyên các tăng ni sinh để ý, nếu lười tu học sẽ hỏng một đời tu hành.
     Rèn luyện Vô-thượng Bồ-đề theo Hoa-Nghiêm không có nghĩa là thuộc lòng lời Phật Tổ, mà chỉ mượn văn tự để phát huy trí giác. Muốn phát triển trí tuệ cần văn-tư-tu, nhưng kẹt chấp vào đó thì Bồ-đề-tâm không phát triển. Học thức được vỏ nảo tiếp thu cho ta những hiểu biết về cuộc sống hiện tại. Phàm phu nhị thừa đạt trí tuệ trong dạng nầy. Sở đắc của Bồ-Tát không dừng ở vỏ nảo mà đi sâu vào trung nảo. Trung nảo hoạt động, sản sinh trí giác thấy biết chính xác. Mức độ nầy chỉ có ở các Thiền sư khi nhập định. Họ nhập Pháp giới, sống với Chân tâm. Phàm phu chúng ta không thể trắc lường được. Ý thức phàm phu còn ở trong cảnh giới sanh tử luân hồi. Ta chỉ mượn ý thức để làm thềm thang bước vào thế giới Chân tâm. Vào rồi thì bỏ hết. Lúc ấy vỏ nảo ngưng hoạt động, đầu óc nhẹ nhàng,  tinh thần thảnh thơi.  Phần chính là trung nảo hoạt động để phát sanh Vô-thượng Bồ-đề. Pháp hành của Bồ-Tát tác động bằng tâm qua các loài khiến chúng sanh phát tâm Bồ-đề. Ai đã phát tâm rồi thì Bồ-đề-tâm được tăng trưởng. Các Ngài vượt lưới ma nhờ  niệm. Khi cần thì pháp giới chúng sanh hiện đủ trong tâm, không cần thì chẳng có bóng hình nào.
      Còn tâm thức chúng sanh thì dù vật đã đi qua, vẫn lưu lại hình bóng pháp trần. Tâm Bồ-Tát như tấm gương, có chúng sanh thì hiện rõ nó muốn gì nghĩ gì,  tùy nhu cầu mà giáo hóa không sai trệch. Không có chúng sanh thì tâm trong suốt không một mảy trần. Ở Bồ-Tát trí giác thành trực giác, biết đúng mà không dùng đến suy nghĩ tính toán. Đạt vô-lậu-tuệ nầy mới thông suốt được cả Y báo (phước bên ngoài), Chánh báo (trí bên trong) của các loại chúng sanh.

      2- Nếu không tiếp cận chúng sanh thì chỉ là hiểu biết thuần túy. Kinh dạy : “Trong cánh đồng mông mênh những sanh cùng tử nầy, có cây Bồ-đề thọ-vương. Gốc rễ là chúng sanh. Nếu không có nước đại bi tưới gốc rễ chúng sanh thì không bao giờ nở hoa Bồ-Tát kết quả Bồ-đề”. Các Bồ-Tát cần hiểu rõ nghĩa nầy là như thế.
     3- Chúng ta có bệnh chấp thành quả. Chấp chỗ hiểu biết nên sanh tăng-thượng-mạn. Kinh Hoa-Nghiêm đưa ra pháp tu Hồi hướng chân như thật tướng để hóa giải pháp chấp. Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có ta độ và người được độ. Tùy tâm nguyện mọi nhu cầu của chúng sanh mà tự động giải quyết. Làm tất cả mà buông tất cả. Cứ thế tiến lên, chấm dứt giai đoạn Hiền vị để chuẩn bị bước lên Thánh vị.

-III-
      56- Thập trụ hạnh và Hồi hướng là hành trang để đăng Địa. Kinh Hoa-Nghiêm (1) đặt tầm quan trọng ở 10 ngôi Địa (Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa) vì đây mới thật là vị trí hành Bồ-Tát-đạo.
      Sơ địa tu 10 ba-la-mật lấy bố thí làm chính yếu. 9 pháp kia tùy duyên trợ đạo. Trong tứ nhiếp pháp cũng lấy bố thí làm chánh hạnh. Bố thí gồm có Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí, bất nghịch ý thí. Quan hệ là Bồ-Tát tự tại thanh thản, không hãnh diện khinh người, không đòi hỏi đền ơn, không buồn giận phiền trách mỗi khi gặp sự chẳng vừa ý. Để tránh những lỗi lầm nầy, Hoa-Nghiêm khuyên Bồ-Tát phải hằng quán 12 nhân duyên (Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão)không quên 4 niệm xứ (trong kinh Tứ-niệm-xứ : niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, niệm Pháp), phải thường niệm Tam Bảo (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng), dùng tuệ-không của Bát-Nhã để giải tỏa các phiền não.
      Bồ-Tát an trụ ở 3 đức : Sáng suốt, Bình tĩnh, Vui vẻ. Không trả đũa ai, chỉ nổ lực phát huy đức lành để cảm hóa chung quanh. Quan trọng là tranh thủ được Phật Bồ-Tát ủng hộ thì tà ma ngọai đạo không chống phá được. Càng chống phá các Bồ-Tát càng mừng vì là cơ hội cho họ có dịp tiến thủ. Trì kinh Hoa-Nghiêm, tu hạnh Phổ-Hiền, lấy trí huệ Văn-Thù làm tòa ngồi, đổi tâm cố chấp, rộng mở khoan dung, tìm những khía cạnh tốt lành của người làm đối tượng để bảo vệ tâm hoan hỷ của mình. Nói thì dễ, nhưng làm thì khó lắm, hành giả phải chí tâm mới đạt.
      Ngôi Địa thứ 2 (Ly cấu Địa) lấy 10 thiện (Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời thô ác, không tham lam bỏn xẻn, không giận dữ, không tà kiến) làm tiêu chuẩn trì giới. Tam tụ tịnh giới : a) Nhiếp luật nghi giới (giữ nghiêm giới luật)b) Nhiếp thiện pháp giới (thực hành các điều thiện)c)Nhiêu ích hữu tình giới (làm điều ích lợi cho chúng sanh).
      Trong Tứ nhiếp pháp, thường đặc biệt tu ái ngữ (nói năng dịu dàng, hòa nhã, chân thật). Không rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

      62- Phẩm NHẬP PHÁP GIỚI. Ngài Xá-Lợi-Phất hướng dẫn 6.000 Tỳ kheo đến Bồ-đề tràng nghe Phật thuyết pháp. Không gặp Phật nên đến rừng Kỳ-Đà, không gặp Phật mà gặp Văn-Thù (ý nghĩa là có cặp mắt Văn Thù để nhìn sự thế)Do thần lực Phật, rừng Kỳ-Đà rộng mông mênh như bất khả thuyết (không thể nói được) cõi Phật. Vô lượng hoa báu, diệu hương, thiên nhạc,… để ca ngợi công đức Phật. Tu hành chân chánh mới thấy Phật và Thánh chúng tọa thiền. Có đắc đạo mới cảm thông với Phật. Tâm Phật ấn tâm mình. Thần của Phật truyền qua mình. Kinh gọi là Phật phóng quang gia hộ. Nhờ vậy chúng ta yên tĩnh minh mẫn. Đây là điểm quan trọng nhất đối với người tu. Tin có Phật ấn tâm, tin có Phật hộ niệm, tâm dễ bình ổn, gặp hoàn cảnh khó khăn vẫn tự tại để sáng suốt giải quyết.

      63- Trí thân và Pháp thân đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na (1) chi phối và điều động muôn người muôn vật.  Càng gặp xấu ác,  tình thương càng mở rộng. Trí tuệ và từ bi vô lượng nên bao oán ghét  chuyển thành Bồ-đề quyến thuộc.  Còn chúng ta sống với vô minh và nghiệp thân nên phiền não bao vây siết chặc đến nổi ngay con cháu trung thành cũng trở nên phản nghịch.
      Xá-Lợi-Phất nhắc đại chúng quan sát Văn-Thù, viên quang tròn sáng (Trí tuệ)tướng hảo trang nghiêm (Phước đức)và con đường đi của Văn-Thù (ý khuyên mỗi người quan sát nếp sống của cha anh, lấy đây làm gương mẫu để tự điều chỉnh. Cao hơn nữa, hãy quan sát đường đi của nhân loại trong luân hồi, đường đi của Thanh Văn Duyên Giác và đường đi đầy hoa tươi thơm ngát của các Bồ-Tát mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề).
      Nền tảng quan trọng của tu hành là trí tuệ. Mỗi tướng mạo của trí tuệ là sức kham nhẫn bền lòng. Phương ngôn ta có câu : “Muốn tạc tượng phải tìm gỗ trầm, đâu có thể dùng gỗ mục”. Các bậc Thầy tìm người gánh vác đạo pháp tương lai, phải thử thách khảo đảo. Đệ tử có sức chịu đựng mới có thành công.
      Văn-Thù đi về Phước-Thành (ý nghĩa từ nay việc làm có trí tuệ chỉ đạo hẵn kết quả tốt lành)Người có phước đức sinh hoạt ở đâu thì có của cải may mắn tự đến. Thiện-Tài sinh ở Phước-Thành nên được Văn-Thù chỉ đường. Thiện-Tài đến Đức-Vân Tỳ kheo, và từ đó tiếp tục đi học hỏi 53 vị thiện tri thức. Điều nầy cho thấy : được khai ngộ chưa đủ, phải chẳng quản gian lao, cực khổ rèn luyện trí năng, nghiêm chỉnh trau dồi đức tánh,  mới hy vọng thành mẫu người có thể giữ gìn giềng mối đạo pháp.

      71- Trên đường tham vấn cầu đạo, Thiện-Tài được Hưu-Xả Ưu-bà-di truyền pháp Ly-Ưu-An-Ổn-Tràng. Nữ cư sĩ có năng lực hễ ai nhìn thấy bà liền được sạch phiền não, an trụ giải thoát và bất thoái nơi đạo Bồ-đề.
      Kế đến Thiện-Tài được Tiên nhân Tỳ-Mục-Cù-Xoa nắm tay. Thiện-Tài liền thấy tất cả Phật-độ (cảnh giới Phật) và nghe rõ pháp-âm của chư Phật. Thiện-Tài trở về cảnh giới bình thường ngay khi được buông tay ra. Bồ-Tát hiện thân ngoại đạo, sinh hoạt như họ, mặc áo vỏ cây, ở trong rừng thẳm núi cao. Dùng đồng sự nhiếp hóa chúng sanh. Cù-Mục hiện thân Tiên nhân, đạo cao đức lớn, được tôn làm Thầy. Dưới nhãn hiệu đạo Tiên, ông đưa tất cả môn đồ vào đạo Phật.
      Thiện-Tài tiếp tục học Bồ-tát hạnh với Thắng-Nhiệt Bà-la-môn ở tụ lạc Y-Sa-Na. Theo tinh thần Đại thừa, không bắt buộc phải học giáo lý với Sư Tăng. Nếu cố chấp như vậy thì chỉ thấy được một mẫu người hiền lành đạo đức. Phật là đấng Chánh biến tri (biết tất cả) và Minh hành túc (làm được tất cả)Nay muốn thành Phật ắt phải học kinh nghiệm sống của đủ thành phần xã hội.
      Thắng-Nhiệt Bà-la-môn, một khổ hạnh ngoại đạo, dạy Thiện Tài phương pháp trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa mà không chết (ý nghĩa là vào đời mà không bị đao danh lợi đâm thủng, lửa dục tình đốt cháy. Với trí tuệ giác tỉnh, người ta có thể hoàn toàn tự tại trong hồng trần).
      Thắng-Nhiệt chỉ cho Thiện-Tài tìm học đồng nữ Từ-Hạnh ở phía Nam thành Sư-Tử-Phấn-Tấn. Bồ-Tát đa hạnh nên phải học nhiều người, mỗi người một hạnh. Cũng có thể đồng một hạnh mà hoàn cảnh mỗi người một khác, cấu trúc cơ thể cũng khác, hướng đi vào đời cũng khác, nên mỗi người sống một khía cạnh khác nhau. Kinh Hoa-Nghiêm chủ trương đưa tất cả giàu, nghèo, nam, nữ, khôn, dại,… lên Vô thượng Đẳng giác. Ở đây đưa ra hình ảnh cô bé trong sạch hoàn toàn, nâng cô lên đỉnh cao là nhập Pháp giới. Cô ở cung điện Tỳ-Lô-Giá-Na(2) (ý nghĩa từ chân tâm tuyệt đối thanh tịnh, phát xuất những công hạnh khiến người được an vui)Từ-Hạnh như bông hoa trang nhã tốt tươi. Đủ cả hai ưu điểm hương và sắc. Bồ-Tát hiện thân đồng nữ. Sống ở đâu cũng chỉ một chiều hướng khoan dung độ lượng. Ai nghe tiếng, ai thấy hình, liền được an ổn. Đây là biểu tượng một sức mạnh thù thắng thể hiện bằng Pháp hành. Đồng nữ dắt Thiện-Tài vào nhà mình (ý nói nhập Như Lai tạng)Thiện-Tài thấy 36 ức hằng sa đức Phật đồng có mặt mà không chướng ngại nhau. Mỗi vị một quá trình hành đạo khác nhau, thuyết pháp không đồng nhau. Tất cả tác động cho đồng nữ chứng Bát-nhã môn (tức là trí tuệ quan sát muôn hình vạn tượng duy một Như Lai tạng tâm).
      Đồng nữ dạy Bồ-tát-hạnh cho Thiện-Tài bằng một câu đơn giản : “Hãy quan sát cung điện trang nghiêm của ta” (ý nói nhập Bồ-Tát cảnh giới). Bỡi vì Bồ-tát-đạo là tích lủy công đức nhiều kiếp. Nếp sống và cuộc đời của Từ-Hạnh Chánh báo, Y báo trang nghiêm, dân trong thành  ai cũng quí trọng,  là thể hiện  của lòng từ bi  đã được vun bồi từ sâu xa.  Sự nghiệp và quyến thuộc là thành quả của công hạnh quá khứ, ngó thấy liền biết thực chất, đâu cần dài dòng lý thuyết. Những gì Từ-Hạnh chứng đắc, nói rộng là phải phụng thờ 36 ức hằng sa Phật, tu học các pháp môn. Thâu lại thì chỉ có một việc là chứng nhập Chân tâm bản tánh. Hoa-Nghiêm dạy : “Một là tất cả, tất cả là một”.

       77- Cụ-Túc Ưu-bà-di chứng đắc được vô tận tạng giải-thoát-môn. Tài sản chỉ một bình bát nhỏ mà đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho mười phương chúng sanh. Cư sĩ Minh-Trí chỉ ngửa mặt lên trời là có đủ mọi thứ cần dùng cho đại chúng.
       Trên đây là những việc không thể nghĩ bàn đối với phàm phu chưa vào Thánh-cảnh-giới.
       Thiện-Tài tìm đến nhà Pháp-Bảo-Kế. Ngôi nhà có 10 tầng (nêu biểu đã tu chứng 10 Địa). Tầng 1 bố thí thực phẩm. Tầng 2 bố thí y báo (áo giới luật bảo vệ sự an toàn đệ nhất. Tùy trình độ tới đâu thọ lãnh pháp luật tới đó)Tầng 3 và 4, các Bồ-Tát tinh tấn nhẫn nhục. Nơi đây ai cũng hài hòa. Tầng 5, các Bồ-Tát ngồi yên thiền định mà ảnh hưởng khắp 6 đạo (trời, người, a-tu-la, thú vật, ngạ quỷ, địa ngục), 4 sanh (noãn sanh, thai sanh, ẩm sanh, biến hóa sanh). Tầng 6, các Bồ-Tát luận bàn về Bát-nhã ba-la-mật. Cho đến tầng 10 là chỗ nhóm họp của 10 phương Phật. Nguyên do quá khứ vô lượng kiếp, trưởng giả đã thắp một nén hương cúng Phật với tâm nguyện : “Mai sau giàu có, thường được gặp Phật, hằng nghe chánh pháp”. Từ đấy mỗi đời chứa góp thiện căn phúc đức nên mới được thành quả như thế.

      79- Vua Vô-Yếm-Túc  dùng cực hình  để giáo hóa chúng sanh trong thế giới ác. Vua Đại-Quang ở thế giới hiền lành nên chỉ dùng Thánh thiện khuyến dẫn nhân dân. Kinh Hoa-Nghiêm đề ra 2 mẫu hành động của Bồ-Tát (tĩnh và động) rồi đưa Thiện-Tài đến gặp Bất-Động Ưu-bà-di. Bà đã chứng được thể tánh bất động của muôn vật nên vượt ngoài chi phối của các hiện tượng sanh diệt, thiện ác. Cho đến ngũ uẩn thân trong thai mẹ cũng không bị mờ tối. Tâm như kim cang, tất cả phiền não không phá hoại được. Trải vô số kiếp không khởi một niệm ái dục, huống còn làm việc ấy. Tâm bà an định khiến thế giới quanh bà cũng bình ổn theo.

      81- Bất-Động giới thiệu Thiện-Tài đến cầu học Biến-Hành ngoại đạo (Biến : thay đổi, Hành : hành động)Bất-Động và Biến-Hành (tĩnh và động) là 2 mặt của cuộc đời. Thiện-Tài thẳng về phía Nam, tìm chỗ náo nhiệt nhất cầu gặp Biến-Hành. Ai ngờ thấy Biến-Hành đang chậm rãi đi trên một ngọn núi vắng vẻ (Trên núi : chỉ nâng tâm cao đến tột cùng mới thấy. Vắng vẻ : là vào pháp giới, ở chỗ động mà tâm không động)Biến-Hành hành đạo ở chỗ đông người trong khi vẫn kinh hành ở chỗ không người. Bồ-Tát Biến-Hành tùy duyên hiện thân để cứu độ chúng sanh, đưa người vào Phật đạo. Quá trình tu học nầy thể hiện ý nghĩa : gặp hòan cảnh động phải trụ tâm bất động để không bị đời lay chuyển. Nhưng không khoanh tay ngồi yên mà phải tùy thích hợp có những hành động lợi ích hữu tình. Nay tiến lên đem đạo vào đời,  làm đẹp cho đời,   Thiện-Tài  phải cầu học trưởng giả Ưu-Bát-La-Hoa.
      Ưu-Bát-La-Hoa buôn bán các thứ hương : hương bột, hương xoa, hương đốt,… Đi từ cõi đời đến Long cung, ông mua các loại hương thơm đem về tổng hợp chế biến (nghĩa là góp gom tập hợp tất cả những điều hay nghiệp tốt, điều chế phát minh các loại hương kỳ đặc)Chỉ cần dùng một viên là cả thành đều vui vẻ. Có thứ hương tiêu diệt tâm ác. Có thứ hương hễ ai ngửi tới liền giải thoát ích kỷ, bỏn xẻn. Hoa Ưu-bát-la là tên 1 trong 4 loại hoa sen trong thế giới Cực Lạc (Ưu-bát-la, Bát-đàn-ma, Câu-mâu-đầu, Phân-đà-lợi), thứ sen ngát thơm thế gian không có (nêu biểu người đã tạo nhiều công đức, một bậc toàn trí toàn thiện, có khả năng đưa chúng sanh lên cao)Ưu-Bát-La-Hoa nhắc Thiện-Tài : “Chính phước nghiệp cứu người, tội nghiệp hại người. Cần dạy chúng sanh làm lành tránh ác. Họ sẽ tự giải khổ hưởng vui, chứ không phải ta (chỉ Phật, Bồ-Tát) có thể giúp được họ. Nên dạy người giàu càng bố thí thì nguồn nước phước đức càng trong. Bày cho người nghèo đem tâm lực và thân lực lợi ích quần sanh, cuộc đời sẽ đổi mới một cách tốt đẹp. Bồ-Tát thuyết pháp bằng hành động, bằng nếp sống. Nhờ va chạm với đủ thứ hoàn cảnh để Bồ-Tát luyện ý chí. Nếu cứ sống hoài trong tháp ngà, chùa to, chắc ai cũng sinh đủ tật xấu”.
      Thấy Thiện-Tài có khả năng tiến xa, ông khuyên Thiện-Tài đến học với thuyền trưởng Bà-Thi-La. Chúng sanh là như vậy. Khi gặp tai nạn bảo họ tụng kinh, niệm Phật, ăn chay, họ răm rắp làm theo.  Thoát nạn rồi thì họ sẽ nói :  không có thì giờ. Cho nên Bồ-Tát phải theo dõi đến nơi đến chốn. Chìu mặt nầy, chặn mặt kia, chỉ cốt đưa họ đến thật sự giải thoát.
      Kinh Hoa-Nghiêm (1) đề ra những diễn viên mang hình tướng thế tục mà vẫn thể hiện tinh hoa Phật pháp, tạo phương tiện đưa chúng sanh ra khỏi biển luân hồi. Chỉ chỗ báu để họ thỏa lòng ham thích, lại chỉ hang ổ La-sát để họ biết rõ những điều đáng sợ. Dìu dắt chúng sanh đi lấy báu mà chính Bồ-Tát không nhặt một viên ngọc. Bỡi vì Bồ-Tát không màng phước đức, chỉ hướng dẫn chúng sanh vào biển trí tuệ, mong họ biết cách tự giải thoát. Từ biển Phiền não vào biển Pháp tánh, thuyền trưởng Bà-Thi-La lái thuyền Bát-nhã (đáo-bỉ-ngạn – qua bờ giải thoát), mong chúng ta thấy rõ xuất xứ của 6 đạo 4 sanh để cùng Bồ-Tát tìm phương tiện đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác.

      83- Thiện-Tài tiếp tục đến học đạo với trưởng giả Vô-Thượng-Thắng. Trưởng giả giải thích nguyên nhân cấu tạo cốt lõi của con người và vạn pháp trong vũ trụ. Quan sát những sai biệt chuyển biến căn trần thức giúp Bồ-Tát dò xét góc độ tài năng, đức hạnh, tâm tưởng chúng sanh. Trong thực tế, mỗi loài vì Phiền não chướng, Nghiệp chướng và Báo chướng nên cuộc sống rất khác nhau. Trên Phật tánh thì bên trong ai ai cũng bình đẳng. Nhờ Bồ-Tát giúp đở, ai phấn đấu tu hành cũng có thể thành Phật.
      Thiện-Tài diện kiến Tỳ-kheo-ni Sư-Tử-Thần-Thân, vốn là một vị cổ Phật hóa hiện, đủ 3 ngàn oai nghi, 8 muôn tế hạnh. Thiện-Tài lại đến cầu đạo với kỷ nữ Bà-Tu-Mật. Quả thật, hảo tướng của Bà-Tu-Mật có tác dụng hướng thượng. Ai thấy cô gái nầy đều liền hết tâm tham ái, ai nghe tiếng cô đều liền được phạm hạnh.

      84- Cư sĩ Tỳ-Sắc-Chi-La khẳng định không một Như-Lai nào nhập Niết-bàn. Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành. Đọa tam đồ, Phật chủng không mất. Thành Phật, Phật chủng không tăng. Đây là cốt tủy Kinh Hoa-Nghiêm. Rất tiếc chúng ta không thấy hạt giống Phật của mình và của chúng sanh. Kinh gọi là đãy da đựng ngọc quí. Không chịu sử dụng ngọc quí có trong tâm mà cứ nhận những mê khổ bên ngoài là của mình (nhận giả bên ngoài làm thật). Cư sĩ Tỳ-Sắc-Chi-La tiếp cận chân lý, thấy được hiện hữu vĩnh hằng của Phật, coi ai cũng là Phật. Cùng với mọi người xây dựng một cộng đồng tu hành. Tùy mức độ chứng ngộ, cứ phá phiền não tới đâu, điều tốt sẽ đến với mức ấy. Như vậy thế gian chẳng còn tốt xấu. Ta thấy xấu là tại ta còn vụng tu.
      Chỗ thật khó hiểu là không ai chịu nhận mình là Phật. Cứ khư khư cho mình là loại hèn kém. Hãy chắp tay cầu cứu đức Bồ-Tát Quán-Thế-Âm.

      89- Thiện-Tài cầu đạo với thần Đại-Thiên và địa thần An-Trụ. Trời che đất chở tôn giáo cổ truyền. Trong Kinh Hoa-Nghiêm, các thần cũng là những hiện hữu như trời người. nhiều vị cũng tu Bồ-tát-đạo, đem lại lợi ích cho hữu tình, tiến dần lên ngôi Phật.
      Cuối cùng, Thiện-Tài gặp đức Di-Lặc. Ngài khảy tay 3 cái thì cửa lầu Tỳ-Lô-Giá-Na mở toang. Tất cả quá khứ của Bổn sư Thích-Ca  đều hiện tại  và kéo đến tận vị lai.  Tham quan xong, lầu gác tự biến mất (Lầu tiêu biểu Pháp thân Phật, đức Di-Lặc là người giữ lầu). Ngài đã sử dụng được phần linh hoạt của Chân tâm nên đã suốt thông với thanh tịnh Pháp thân Phật. Di-Lặc là Tổ của Tông Duy-thức. Ngài dạy chúng ta quan sát 6 Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) huyễn hóa như tâm thức biến động. Tâm thức chúng ta như một cái kho vô hình chuyên chứa bao nhiêu phiền não lầm mê. Nếu được như Thiện-Tài học chuyển những hạt giống ấy thành từ bi trí tuệ thì sẽ được kết quả như Thích-Ca không khác. Trên lộ trình Phật đạo, chúng ta đang được Bồ-Tát Di-Lặc chăm sóc. Di-Lặc đã chứng Từ-tâm Tam-muội. Chúng ta tu theo gót Ngài, lấy bình ổn làm lẻ sống. Tâm an thì Định sanh. Sự vật không bị phiền chướng tác động  là nhờ có Tuệ. Bản thân và hoàn cảnh sẽ mỗi ngày một tốt thêm hơn. Cuộc sống giải thoát, vị tha đưa dần chúng ta vào Tri-kiến-Phật. Chúng ta sẽ tự thấy mình như Phật Thích-Ca và Di-Lặc, tồn tại khắp không gian và thời gian.

      96- Thiện-Tài một lòng thẳng tiến, trải qua 110 thành, cầu học với 54 thiện tri thức, niềm tin kiên cố tu đến Thập Địa. Ý nầy Kinh Pháp-Hoa diễn tả là vượt qua 500 do-tuần đường hiểm, lòng không bợn nhơ. Gặp việc đáng buồn không buồn, đáng giận không giận, đáng ham muốn không ham muốn. Thiết nghĩ tu hành thành công chính là ở điểm đó.

      Mùa xuân trì Hoa-Nghiêm, theo chân Thiện-Tài tới sống với các thiện tri thức kỳ diệu. Trở về thực tế, chúng ta tập hoan hỷ trong mọi sóng gió. Việc xấu, tìm thấy khía cạnh tốt. Như thế, khó hóa ra dễ. Vì những huyễn vọng sanh diệt ở thế gian chỉ đáng trả giá bằng một nụ cười.
      Nguyện cầu liệt vị Tăng, Ni, các hàng phật tử cùng nhau tinh tấn trên lộ trình đầy ánh sáng của Thiện-Tài. Mai đây cùng vào lầu gác Tỳ-Lô-Giá-Na, hưởng mùa xuân Hoa-Nghiêm bất tận.
      Mười phương Bồ-Tát sẽ soi rọi cho chúng ta mỗi bước tự-lợi tự-tha được thanh tịnh bình an trên con đường về ngôi nhà chung (Lạc Bang, Lạc Quốc) !


-------------------------------------------------
        (1) Kinh Hoa-nghiêm là vua các kinh Đại thừa, do Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni thuyết tại Bồ-đề Đạo tràng và 8 pháp hội khác. Kinh xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I, bản gốc tiếng Phạn gồm 48 phẩm với 100.000 bài kệ. Đến năm 643 mới truyền sang Trung Quốc, các vị Đại sư Trung Quốc lần lượt dịch được 40 phẩm, trong đó có 3 phẩm quan trọng nhất : phẩm Nhập Pháp Giới, phẩm Như Lai Thị Hiện, phẩm Thập Địa Bồ-Tát. Năm 1965 Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch từ Hán ngữ sang Việt ngữ gồm 8 quyển.
      (2) Phật Tì-Lô-Giá-Na còn gọi là Phật Đại-Nhựt-Như-Lai (tiếng Việt dịch là Ánh sáng chiếu khắp - Mặt trời lớn) là giáo chủ của Mật-tông-giáo, giáo chủ của thế giới Liên-hoa-tạng, là Phật trung tâm của 10 vạn ức cõi nước Phật : Phật Tì-Lô-Giá-Na ở giữa, bốn phương có 4 đức Phật : phương Đông có Phật A-Súc, phương Tây có Phật A-Di-Đà, phương Nam có Phật Bảo-Sanh, phương Bắc có Phật Bất-Không-Thành-Tựu, gọi là Ngũ trí Như-Lai của Kim-Cang-giới.
       Phật giáo phát triển cho rằng Phật Thích-Ca-Mâu-Ni có 3 hình tượng : chính giữa là Phật Tì-Lô-Giá-Na (pháp thân), bên trái là Phật Lô-Xá-Na (báo thân), bên phải là Phật Thích-Ca-Mâu-Ni (ứng thân).
      Phật Tì-Lô-Giá-Na thường hằng trong mỗi chúng sanh, khác với Phật nguyên thủy có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp (như Phật Thích-Ca, Phật A-Di-Đà).
                                                                                                    NGUYÊN CHƯƠNG




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét