AI
THỰC TẾ HƠN AI ?
Hòa thượng THÍCH THANH TỪ
giảng tại THIỀN VIỆN CHƠN KHÔNG Vũng Tàu
Nguyên Chương biên tập
NIỆM PHẬT ĐƯỜNG LIÊN TRÌ
KP Phú Hòa, phường Hòa Lợi, huyện Bến Cát,
TP Bình Dương, tỉnh Bình Dương
ấn tống
Trước khi vào đề tài tôi xin hỏi câu nầy : Nếu người nào thấy tờ giấy trắng nói đen, và ngược lại thấy tờ giấy đen nói trắng, thì chúng ta đánh giá người đó thế nào ? Dĩ nhiên người đó sai. Theo danh từ nhà Phật gọi là điên đảo, tức thấy lộn ngược, không đúng lẽ thật.
Phật thường nói : chúng sanh thường sống trong vô minh điên đảo, không nhận ra lẽ thật, sống trong mờ mịt tăm tối, không thấm nhuần chân lý, gọi là người vô minh. Trở lại thực tế, ngay nơi bản thân chúng ta hiện giờ là thật hay giả ? Nói theo kinh sách thì nó giả, còn theo tình cảm thì nó thật. Như vậy Phật nói sai hay chúng ta nói sai ? Chắc chắn không ai dám nói Phật nói sai, thế thì chúng ta nói sai vậy. Phật thấy thân là giả, chúng ta cho thân là thật. Tờ giấy trắng nói đen. Rõ ràng cái thấy cái biết của mình không đúng như thật.
Chúng ta cùng nhau tuần tự nghiệm xét lại vấn đề nầy. Nếu thân là thật thì ông cha chúng ta không chết, phải không ? Vì thật thì còn hoài còn mãi. Nhưng ta thấy ông chết rồi đến cha chết, anh em chết, mình chết,… như vậy thân đâu có thật. Người nầy đến rồi đi, người kia đến rồi đi, ai cũng có mặt một thời gian rồi chết. Đó là lý vô thường thân không thật, vì nó không ra ngoài vòng sinh, già, bệnh, chết. Nó là dòng chuyển biến không dừng nên không thể thật được. Như mấy đứa trẻ con đốt một cây nhang rồi cầm quay nhanh nên ta thấy có một vòng tròn lửa. Vòng tròn đó thật hay giả ? Nếu nói thật thì ta nói sai, vì vòng tròn đó chỉ là đốm lửa của đầu cây nhang quay nhanh thôi.
Trong con người chúng ta tế bào nầy sanh, tế bào kia diệt liên tục. Do dòng chuyển biến không ngừng ấy tạm kết thành thân. Sanh, già, bệnh, chết, ta sống bằng sự chuyển biến không ngừng đó mà cho là thật mới lạ chứ. Vì vậy chấp thân thật là vô minh. Từ vô minh lại sanh thêm các thứ ngã chấp, pháp chấp khác nữa. Cứ thế ta sống trong nhiều lớp mê mờ, khó thoát ra được. Do đó đau khổ phát sinh, và nỗi khổ lớn nhất là trầm luân mãi trong sanh tử luân hồi.
Bước sang lãnh vực thứ hai là duyên hợp. Phật dạy toàn bộ thân nầy do tứ đại (đất, nước, lửa, gió) hợp thành. Đất là chất cứng như tóc, răng, da, thịt, xương, gân… Nước là chất lỏng như mồ hôi, máu huyết… Lửa là chất nóng như hơi ấm trong người… Gió là chất khí như hơi thở… Bốn chất đó không thể thiếu chất nào (nếu thiếu một chất thì thân bệnh). Nó tồn tại được trong thân ta là nhờ mượn bốn chất có từ bên ngoài đem vào (vũ trụ). Vì vậy sự sống của thân ta hoàn toàn là nương nhờ, vay mượn. Đất thiếu thì mượn ít chén cơm, nước thiếu thì mượn ít chén trà, lửa thiếu thì mượn ít miến gừng miến ớt, gió thiếu thì mượn liên tục không khí bên ngoài để thở. Mượn thì phải trả (ý nói hết sống thì phải chết). Một sự sống vay mượn như vậy mà nói là của mình, nói là thật thì không gọi là điên đảo sao được !
Tóm lại, đứng về mặt thời gian thân nầy chuyển biến không ngừng (sinh, già, bệnh, chết) nên không thật. Đứng về mặt không gian thân nầy do vay mượn đất, nước, lửa, gió liên tục bên ngoài mà tồn tại nên cũng không thật. Như vậy, khi quán sát kỹ ai cũng biết thân không thật. Nhưng trên bình diện tình cảm, trên ảo tưởng của mình thì không ai dám nói nó là giả cả. Chúng ta phạm một sai lầm lớn như thế nên luôn thất bại, luôn đau khổ vì thân.
Trong tất cả chúng ta có mấy người được giác ngộ ? Kể cả hàng tu sĩ cũng thấy thân có thật nữa huống chi người còn tóc. Thế mới thấy cội gốc vô minh của chúng sanh quá sâu đậm, gở bỏ thật là khó. Chúng ta chỉ thấy bằng ảo tưởng (như thấy đóm lửa đầu cây hương quay nhanh tưởng vòng tròn thật), chứ không phải thấy bằng trí tuệ nên là điều hết sức quan trọng.
Khi thấy thân là thật thì mọi nhu cầu của thân như tài, sắc, danh, thực, thùy (ngũ dục), hay sắc, thanh, hương, vị, xúc (ngũ cái) đều trở nên quan trọng, cần thiết. Do đó người ta tìm kiếm, đòi hỏi mọi nhu cầu lợi ích cho thân. Ăn thì phải ngon, mặc thì phải đẹp, ham muốn đủ thứ, từ đó khởi sanh tham. Lúc nào cũng muốn hơn người, thua là sinh bực tức, từ đó khởi sanh sân. Tham, sân có là do si, si là chấp thân nầy thật. Si là gốc vô minh.
Như vậy từ si có tham, sân. Mà tham, sân rồi thì đau khổ liền theo sau. Nếu không có si thì không có tham, sân. Nếu thấy thân là giả rõ ràng dứt khoát thì hết si liền. Vì thấy thân là thật nên mới ham thụ hưởng. Nói tham, sân, si chưa đúng lắm, lẻ ra nên nói si, tham, sân đúng hơn. Sân nổi ra ngoài thấy có vẻ dữ tợn lắm nhưng dễ dẹp. Ở cõi Trời không có sân, vì muốn gì có nấy. Còn ở cõi người muốn mà bị giành mất nên mới nổi sân. Cho nên ở thế gian sân quan trọng, lên cõi Trời thì hết quan trọng. Những người khá giả là nhờ có phước, muốn gì được nấy (ta thường gọi là Trời cho) nên họ ít sân. Còn người nghèo ít phước (Trời không cho) làm ăn trục trặc nên dễ sân. Hiểu được như vậy mới biết do mê lầm lấy giả làm thật nên sinh ra tham, sân, si.
Thân chúng ta có hai phần : phần vật chất (tức thể xác), phần tinh thần (tức tâm linh). Có thể xác thì phải có tinh thần. Thể xác nầy chúng ta phân tích ở trên thấy là giả rồi. Bây giờ đến tâm linh.
Vậy tâm linh là gì ? Có ai nói tôi suy nghĩ thế nầy, thế kia. Đó là tâm tôi. Mọi người đều cho những suy nghĩ, hiểu biết, phân biệt là tâm mình. Bấy giờ ta thử quán sát xem điều nầy có đúng không. Đây là vấn đề tế nhị, sâu kín nên cần phải xem xét kỹ lưỡng mới được.
Như khi ai chọc giận ta lên thì ta nói “tôi giận”. Thế thì cái giận đó là tôi rồi, đó là sân. Khi ai làm điều gì mình thấy thích thì ta nói “tôi thích”, đó là tham. Ai làm mình buồn, thương, ghét, ta nói là “tôi buồn, tôi thương, tôi ghét”, đó là si. Tóm lại, tất cả tham, sân, si đều là tôi, là tâm tôi. Đó là điều lâu nay người Phật tử còn đang phân vân chưa giải quyết được, vì còn nghĩ đó là tâm mình.
Bây giờ tôi đặt câu hỏi : từ khi chúng ta còn bé đến lúc già chết thì mình là một hay nhiều người ? Ví dụ từ trẻ là A thì đến già vẫn là A hay là B, là C ? Lúc trẻ gọi là anh A, thì khi già gọi là bác A chứ đâu có gọi bác B, ông C. Như vậy mình là một. Còn vui, buồn, thương, ghét, giận hờn cả trăm thứ thì cái gì là mình ? Chẳng lẻ mình là trăm nghìn thứ lộn xộn đó ? Đó là một vấn đề chúng ta phải suy ngẫm, nhận định cho chín chắn.
Thí dụ : có một Phật tử đang ngồi buồn than thở, chợt có ai chạy đến nói vé số anh ta trúng số rồi, khi đó anh ta có còn buồn không ? Chắc chắn là anh ta vui lên rồi. Nếu buồn là của mình thì mình buồn mãi buồn hoài chứ. Nhưng nếu người đó lại nói dò nhầm rồi, vé số sai một con số, thì chắc chắn người Phật tử đó đang vui trở lại buồn thất vọng ngay. Vui buồn thay đổi liên tục như vậy thì cái nào là thật của mình ?
Giận, ghét cũng vậy. Có người mình ghét cay ghét đắng, nhưng mình đang kinh doanh thất bại mà anh ta đem tiền đến cho mượn vốn làm ăn, lúc đó mình còn ghét nữa không, chắc chắn là không. Như vậy ghét, thương không thật, tùy duyên mà có. Gặp duyên trái ý thì tức giận, thất bại thì buồn phiền, không có gì nhất định hết. Không nhất định, đổi thay như chong chóng mà nói là tâm mình thì tâm mình đổi thay không thật rồi.
Lúc nào ta cũng cho ta là nói phải, nghĩ phải, ai cải lại thì không chịu. Càng đi sâu vào tâm lý mới thấy đức Phật thật sáng suốt vô cùng. Khi nghĩ, chúng sanh thường nói đây là cái nghĩ của tôi, đừng thêm bớt vì cái nghĩ của tôi “là đúng”. Trong nhân gian có gì là chân lý bất di bất dịch đâu, phải chỗ nầy thì không phải chỗ kia. Thí dụ : luật pháp của nhà nước phong kiến thời xưa thì phụ nữ không được ra khỏi nhà, phải tam tòng tứ đức. Nhưng luật pháp thời nay thì nam nữ bình quyền. Nếu ta cho rằng hồi xưa đúng nghĩa là bây giờ không đúng, nhưng ngày nay mọi người đều chấp nhận như thế thì ta nói sao đây ? Vì thế nên biết không có pháp nào cố định, không có pháp nào đúng mọi lúc mọi nơi cả.
Như vậy mà chúng ta cứ đặt thế nầy là phải, thế kia là quấy thì sáng suốt hay cố chấp ? Đó là cố chấp. Vì luôn cho mình là đúng nên mới xảy ra tranh cải, hận thù. Muốn tìm lẻ phải rất khó, vì ai cũng muốn bảo vệ cái phải của mình. Đơn cử như hai vợ chồng, nếu ai cũng cho mình là phải thì xảy ra xung đột thường xuyên, dẫn đến ly tan.
Nhìn kỹ con người ở thế gian nầy có trăm ngàn thứ lăng xăng, lộn xộn mà không có gì đúng với sự thật. Thế nhưng có ai cho mình là sai đâu. Ngay cả tên trộm cũng bảo vệ cái đúng của nó. Những cái đúng bảo thủ đó đụng đầu nhau, giữa hai người thì xảy ra cải vã, giữa hai tập thể thì chống đối chia rẻ, giữa hai quốc gia thì gây chiến tranh,… Tất cả đều từ tâm chấp của mình mà gây nên bao nhiêu đau khổ. Nếu rõ biết cái nghĩ là không thật, không ai đúng ai sai cả, tỉnh táo cùng nhau giải quyết thì không bao giờ có chuyện cải vã, xung đột xảy ra. Ở thế gian từ chấp thân là thật, sinh ra giành giựt, tranh đoạt vật chất nên mới có chiến tranh loạn lạc, khổ đau. Chính vì vậy mà Phật dạy đừng chấp thân là thật, đừng chấp tâm là thật. Tất cả đều là giả tạm.
Còn một cái thật chúng ta lại bỏ quên. Bây giờ phải quay lại tìm kiếm cho ra cái thật đó, nếu không chúng sanh sẽ còn phải chịu khổ đau triền miên. Bỡi chấp thân là thật, chấp tâm là thật nên mới sinh ra xung đột. Nếu chúng ta chịu khó nhìn lại tâm đang suy nghĩ, phân biệt đó ra sao, thì nó biến mất không tìm thấy, liền hết suy nghĩ, như thế rõ ràng tâm không thật. Như khi ta giận, chịu khó quay lại tìm cái giận đó ở đâu thì chẳng thấy, liền nguôi giận. Vân vân… Quay lại với chính ta đó là tu (phản bổn hoàn nguyên, bổn lai diện mục). Như vậy tu dễ chứ đâu có khó.
Thật ra, tu đơn giản lắm, không có bùa chú phép tắc gì hết. Chỉ cần nhìn lại những thứ lăng xăng lộn xộn xem nó ở đâu, tìm không thấy thì nó biến mất. Tự nó mất tức biết nó không có thật. Chúng ta tu theo Phật đã lâu mà không dám khẳng định thân nầy là giả, tâm nầy là giả, sợ thiệt thòi, sợ mất mình. Đó là tu chưa cương quyết, chưa thật tu. Tu làm sao một phen giác thì giác luôn, đừng quay trở lại mê. Biết giả rồi thì giả luôn, đừng ngầm chấp thật lại. Chúng ta nghe kinh Phật mà không hiểu Phật nói gì thì lúc giác lúc mê. Ở nhà thì mê, đến chùa thì giác, hoặc nửa giác nửa mê. Nên tu hoài mà không hết khổ, rốt cuộc cũng lay hoay mãi trong luân hồi lục đạo (là trời, người,a-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục).
Mỗi đêm chúng ta tụng kinh Bát Nhã, đọc “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” (tức sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không). Sắc thuộc về thân, thọ tưởng hành thức thuộc về tâm. Nếu thấy hai thứ đó đều không thật liền qua hết khổ nạn. Thân không thật, tâm suy nghĩ cũng không thật, thì cái gì là thật đây ? Nhà Phật nói bên cạnh cái giả dối tạm bợ đó, còn có cái chân thật mà lâu nay chúng ta quên. Vì vậy Phật đã đem câu chuyện anh nhà nghèo ra kể. Anh ta được người bạn giàu có mời đãi tiệc thịnh soạn rồi nhét vào túi áo anh ta một viên ngọc quí. Anh ta không nhớ nên vẫn hằng ngày kiếm sống lam lũ. Anh ta khổ là vì quên viên ngọc trong túi. Đến khi được người bạn nhắc lại anh ta mới nhớ ra, liền trở thành phú gia, hết kiếp sống lam lũ.
Phật đã dùng ví dụ nầy trong kinh Pháp Hoa để chỉ cho chúng sanh cái chân thật mà chúng sanh quên, cứ trôi lăn mãi trong cái giả. Đó là giác tánh chân thật, hay tâm chân thật, hay chơn tâm. Thế nó ở đâu vậy ? Tôi xin nêu một ví dụ : như khi nhìn bình hoa, lúc đầu mắt tôi chỉ thấy có bình hoa, nhưng sau đó tôi lại suy nghĩ phân biệt bình hoa đó đẹp hay xấu. Nếu đẹp thì khen, nếu xấu thì chê, đó là bước thứ ba. Nếu ngay niệm thứ nhất thấy bình hoa là bình hoa, không khởi niệm phân biệt, lúc đó không có nghiệp gì hết. Vì khởi niệm phân biệt nên mới tạo nghiệp lành dữ, thương ghét, khen chê. Chính nghiệp dẫn chúng ta trôi lăn vào luân hồi sanh tử.
Nghiệp không có nơi cái thấy ban đầu mà có từ chặng thứ hai, thứ ba. Khi nhìn bình hoa chỉ thấy bình hoa, không khởi niệm gì cả vẫn biết đó là bình hoa mà không dấy động. Qua cái thấy thứ hai, thứ ba mới sanh chuyện. Thấy người cũng vậy, nếu chỉ giữ ở cái thấy ban đầu thôi thì người là người chứ không là gì khác. Nhưng ta thường không dừng lại ở đó, mà nhảy qua chặng thứ hai, thứ ba để phân biệt đẹp, xấu, trắng, đen, cao thấp… rồi sanh khen, chê, thương, ghét… Cho nên dẫn mình trôi lăn trong luân hồi là cái nghiệp thứ hai, thứ ba đó. Nghe cũng vậy, người ta nói thì mình nghe cho rõ, đừng tiến thêm phân biệt giọng trong, đục, hay, dở. Thấy chỉ biết thấy, nghe chỉ biết nghe, ngửi chỉ biết ngửi, nếm chỉ biết nếm, không khởi thêm niệm phân biệt thì không có sanh diệt, mọi việc đều yên ổn. Chặng đầu là chặng chân thật, không tạo nghiệp, không nguy hiểm.
Vậy chặng thứ nhất gọi là gì ? Cũng gọi là tâm, nhưng tâm đó không phân biệt, là tâm chân thật, tức chân tâm. Còn chặng thứ hai, thứ ba là tâm phân biệt nên hư dối, không thật. Thiền sư thấy bình hoa là bình hoa, không khởi thêm cái gì hết, nên thấy như không thấy, không thấy thực ra thấy rất rõ vì đó là cái thấy chân thật.
Chúng ta ai cũng có cái thấy ở chặng thứ nhất cả, nhưng không chịu an trụ ngay nơi đó mà do tâm luôn cố chấp phân biệt nên thích nhảy qua chặng thứ hai, thứ ba, nên mới sinh khổ.
Người Phật tử tu thiền, khi tọa thiền thấy niệm vừa dấy khởi lên liền nói “vọng - buông”. Niệm khởi là cái bị mình biết, nên nó không phải chủ, vì vậy ta mới buông. Buông hết thì tâm được lặng lẽ, lúc đó ai biết lặng ? Ví dụ : tôi đang ngồi trong thất, có người khách tới chào hỏi nói chuyện, một lác người khách ấy ra về. Sau đó hai ba người khách khác tới rồi cũng ra về. Người ngồi yên thấy khách ra khỏi thất, người đó là ai ? Rõ ràng là tôi, là ông chủ chứ ai. Như vậy tâm mình biết được niệm khởi, niệm lặng, tức là ông chủ chân thật (tôi) vẫn bất động yên tịnh, có mặt thường xuyên để thấy các niệm sanh diệt biến đổi (tức là khách vào ra), chứ không chạy theo các biến đổi đó (tức vào ra theo khách).
Đó là lý do tại sao chúng ta phải ngồi thiền, vì mình quá điên đảo, chạy ngược chạy xuôi không lúc nào dừng. Cho nên ngồi thiền để thấy rõ hình tướng của cái lăng xăng đó, chừng nào buông hết các thứ vọng niệm, lúc nó lặng chúng ta mới nhận ra mình chính là cái “biết” được có niệm hay không có niệm. Khi nó lặng mình biết lặng là ông chủ hiện tiền.
Trong nhà Phật nói cỡi trâu đi tìm trâu để chỉ chúng sanh điên đảo, muốn kiếm cái hiện tiền của mình mà lại quay lưng với chính nó thì biết bao giờ mới gặp được. Không đợi phải ngồi thiền mà bất cứ lúc nào, ngồi dưới cội cây chơi hóng mát, đầu óc rỗng rang, không nghĩ gì hết. Gió thổi nghe mát, chim kêu nghe tiếng, lúc đó có mình hay không có mình ? Mình đang hiện tiền mới nghe mới thấy rõ ràng được chứ. Cái nghe cái thấy ban đầu tất cả chúng ta đều biết mà đều quên, không sống với nó lại sống với những suy tính đảo điên nên sanh cuồng loạn khổ đau.
Chúng ta tu để làm gì ? Để chừa bỏ các lầm mê chấp thân nầy là thật, chấp tâm sanh diệt là tâm của mình rồi giành giật hơn thua phải quấy, làm khổ cho nhau. Khi nào biết hai thứ đó không thật rồi chúng ta mới nhận chân được cái chân thật bất sanh bất diệt của mình. Nó hiển hiện từ mắt, từ tai… sáu căn của chúng ta. Vì tâm nầy không sinh diệt nên không tạo nghiệp, không tạo nghiệp nên không luân hồi, không luân hồi thì giải thoát sinh tử rồi.
Chúng ta xét kỹ thân nầy dù được nuôi dưỡng cưng chìu mọi sự sung sướng, nhưng có giữ được mãi nó không ? Tới một ngày nào đó nó cũng sẽ tàn hoại mà thôi. Cái không thể giữ được mà đem tất cả cuộc đời lo cho nó, như vậy không phải khờ dại là gì? Tâm sinh diệt lung tung không thật mà chấp là thật rồi sanh buồn thương giận ghét, gây đau khổ cho nhau, như vậy không phải vô minh là gì ?
Chúng ta tự mình phụ mình, có cái thật mà bỏ chạy theo cái giả rồi kêu trời trách đất. Phật đã chỉ dạy tỏ tường, chúng ta không nghe theo, tới chừng khổ lại kêu Phật cứu nghĩa làm sao? Chúng ta tu là phải gở bỏ cái không thật, làm cho cái chân thật hiển bày. Giác ngộ là không thật biết không thật, biết đúng như vậy, không nghi ngờ. Ai hỏi thân ta thật không ? Ta mạnh dạng trả lời : không thật. Có ai chữi ta ta nghe không ? Ta mạnh dạng trả lời : chữi thì cứ chữi đi. Như vậy tự tại chưa. Nhờ thấy không thật nên ta không chấp gì hết, chữi cũng được, mắng cũng được, khinh khi cũng được, khen chê cũng được. Ta tu ta tự biết. Đã không thật thì có gì đâu mà bận lòng.
Cho nên chỉ cần “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” thì “vượt qua tất cả khổ ách”. Như thế sống trong cõi đời ngũ trược (kiếp trược, phiền não trược, mạng trược, kiến trược, chúng sinh trược) mà chúng ta thảnh thơi, tự tại, đói rách không buồn, khen không mừng, chê không giận thì còn gì nữa mà khổ. Tu tới chỗ cứu cánh là vậy. Cho nên Phật nói : giác ngộ rồi mới giải thoát. Lâu nay chúng ta nói giác ngộ, giải thoát, mà không biết cái nào trước, cái nào sau. Thấy đúng như thật là giác ngộ, giác ngộ rồi mới chừa bỏ các nghiệp nên được giải thoát.
Biết như vậy rồi tu dễ hay khó, mau hay chậm ? Trong kinh nói xa vô số kiếp, nhưng có khi Phật nói dễ như trở bàn tay. Tôi nhớ bài kệ của anh chàng hàng thịt sau khi đã giác ngộ như vầy :
Tạc nhật dạ xoa tâm,
Kim triêu Bồ-Tát diện,
Dạ xoa dữ Bồ-Tát,
Bất cách nhất điều tuyến.
Tôi tạm dịch :
Hôm qua tâm dạ xoa,
Ngày nay mặt Bồ-Tát,
Dạ xoa cùng Bồ-Tát,
Không cách một đường tơ.
Không cách một đường tơ thì có xa gì đâu, như bàn tay lật xuống là úp, lật lên là ngữa. Dễ quá, chúng ta thấy thân thật, tâm thật là úp, thấy thân không thật, tâm lăng xăng không thật là ngữa. Thấy thân tâm nầy thật tức là mê lầm, đó là phàm tục dạ xoa ; còn thấy nó hư dối không thật tức là Bồ-Tát rồi vậy. Như vậy Bồ-Tát và dạ xoa cách nhau bao xa, thế nhưng chúng ta cứ than tu không biết chừng nào mới ngộ. Cho nên người xưa thường nói “hồi đầu thị ngạn”, nghĩa là quay đầu lại thì thấy bờ bên kia liền. Ngó ra là bờ sanh tử, xoay lại là bờ giải thoát, không có đường tơ ngăn cách nào hết, chỉ đổi cái nhìn thôi (tức là quay về chân tâm).
Trở lại vấn đề “ai thực tế hơn ai ?”. Người lo bồi dưỡng thân nầy ấm no sung túc, có danh vọng, giàu sang, mọi người quý phục. Còn người thấy rõ thân nầy hư dối, tâm sinh diệt hư dối, lo tìm cho ra cái chân thật của chính mình rồi chỉ cho người khác cùng sống được như vậy để đạt được chân hạnh phúc. Hai người nầy ai thực tế hơn ai ? Một người đuổi theo cái sẽ mất, sẽ tàn hoại, còn một người tìm ra cái chân thật của chính mình, không bao giờ mất, không bao giờ tàn hoại. Ai thực tế hoan ai ? Câu hỏi nầy tôi xin nhường phần trả lời cho tất cả chúng ta. Có người biết rõ sự thật nhưng can đảm nhận hay không can đảm nhận, lại là chuyện khác. Cũng thế, chúng ta đồng học Phật, tu Phật mà có người thành tựu an lạc, có người càng tu càng phiền não thêm. Đó là quyền của mỗi vị, chớ không ai xen vào được. Chúng tôi chỉ có trách nhiệm trình bày, còn phần thực hành được hay không là do ở mỗi hành giả.
Chúc tất cả nhận ra được ai thực tế hơn ai để con đường mình tu không bị sai lầm.
THÍCH THANH TỪ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét