Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015





Phương pháp
NGỒI THIỀN
BỔ SUNG LẦN 2 (06-2016)

NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm


NIỆM PHẬT ĐƯỜNG LIÊN TRÌ
KP Phú Hòa, phường Hòa Lợi, TX Bến Cát
TP Bình Dương, tỉnh Bình Dương
ấn tống

"Ngồi thiền trên đỉnh núi cao"... (ảnh minh họa)

Thơ
Ngồi Thiền
Ngồi thiền trên đỉnh núi cao,
Thân như nhè nhẹ bay vào hư vô.
Chập chùng sơn đỉnh nhấp nhô,
Mây tuôn biển trắng, sóng xô bạt ngàn.

Ngồi thiền bên bãi cát vàng,
Lắng nghe cát hát vô vàn thinh âm.
Gió rung lòng cát thanh trầm,
Lăn tăn mấy cụm sóng ngầm lan xa…

Ngồi thiền dưới bóng cây đa,
Nghe hương hoa thoảng bay qua bóng chiều.
Thân tâm tịch chiếu phiêu diêu,
Thinh không nhan sắc mỹ miều tinh khôn.

Ngồi thiền trong buổi hoàng hôn,
Màn đêm nhẹ lướt trên cồn dâu xanh.
Chợt nghe chim hót đầu gành,
Nơi A-lan-nhã tinh anh quay về…

                                  NGUYÊN CHƯƠNG
                                        Chiều Đà Nẵng
                                         ngồi chờ bão số 9 đến
                                        (28-9-2009)



"Ngồi thiền dưới bóng cây đa"... (ảnh minh họa)


KHẢO LƯỢC
        Đã có nhiều sách nói về ngồi Thiền, nhiều giảng sư đã giảng về ngồi Thiền. Phật đã dạy : “Con hãy đi bằng chính đôi chân của con, không mượn chân người khác (ý nói lấy Phật trong tâm mình ra để tu, không đi tìm Phật bên ngoài)... Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành" (ý nói chúng sanh đều có chủng tử Phật, quyết tu sẽ thành Phật). Thiền sư Thích Trí Siêu nói : “Thiền là luôn sáng tạo để tiến bộ bản thân, là tự tu tự chứng tự ngộ, không dùng lại kết quả của người khác, vì đó không phải của ta, khi ta hành Thiền thì nó là cái của riêng ta”. Thiền sư  J. Krishnamurti nói : “Thiền định không có chỗ bắt đầu nên không có điểm kết thúc, nó có từ vô thỉ đến vô chung, bạn chỉ là một chặng đường ngắn trên hành trình dài vô tận của nó mà thôi”.
     Vào thời vua Lương Võ Đế Trung Quốc ngày xưa, Ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma) tổ thứ 28 Thiền-tông Ấn Độ đã đem Thiền sang Trung Quốc truyền bá. Chính Ngài đã tạo cho Thiền-tông một sắc thái đặc biệt với bài Thiền kệ bất hủ :
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
        Và Ngài đã trở thành sơ Tổ Thiền-tông Trung quốc. Từ đây Phật giáo Trung Quốc gọi Tông nầy là Tổ sư Thiền, hay Thiền đốn ngộ. Tổ sư Thiền được truyền qua 6 đời Tổ, đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì y bát không được truyền nữa. Các vị Tổ sư Thiền Trung Quốc sau nầy lần lượt lập ra các Phái Thiền Tào Động, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Thiên Thai, Pháp Nhãn, gọi là "Ngũ gia tông phái. Khi tham Thiền nhập định quý Ngài đã sáng tạo ra nhiều pháp Thiền, là quý ngài đã phối hợp kinh Quán niệm hơi thở với Mật tông để lập pháp tu mới. Đời trước tu một pháp, đời sau có thể tu một pháp khác mình sáng tạo ra, nên mới có nhiều pháp tu Thiền như : Thiền quán thoại đầu, Thiền quán công án, Thiền quán tưởng, Thiền sổ tức quán, Thiền quán đảnh,… Thường có số ít đệ tử không tu lại pháp của sư phụ mình dạy. Một số vị đã quay lại Tịnh-độ-tông, chánh pháp của Phật, và lần lượt trở thành 13 vị Tổ sư Tịnh-độ-tông Trung Quốc để dẫn chúng tu hành. Trong đó có Thiền sư Diên-Thọ, trụ trì chùa Vĩnh Minh nên gọi là Thiền sư Vĩnh-Minh (903-975, đời nhà Tống), Tổ thứ 6 của Tịnh-độ-tông, đã có bài kệ Tứ-liệu-giản bất hủ :

Có Thiền, có Tịnh độ
Như hổ mọc thêm sừng
Đời nay làm thầy người
Đời sau làm Phật tổ.

Không Thiền, có Tịnh độ
Muôn tu muôn vãng sanh
Nếu được thấy Di-Đà
Lo gì chẳng khai ngộ.

Có Thiền, không Tịnh độ
Mười người chín chần chờ
Cảnh trung ấm hiện ra
Liền theo nó mà đi.

Không Thiền, không Tịnh độ
Giường sắt và cột đồng
Muôn kiếp cùng ngàn đời
Không một ai nương tựa.

        Theo bài kệ trên ta thấy tu Tịnh độ dễ hơn tu Thiền, chỉ cần niệm Phật là được vãng sanh Tây phương. Nên Ngài Vĩnh Minh (1) đã lập ra pháp Thiền-Tịnh song tu (vào năm 961, thời vua Ngô Việt Vương), dùng Tịnh-độ để đưa hành giã vào Thiền. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã nói Tịnh-độ là một cung bậc của Thiền. Theo Thiền sư Thích Trí Siêu thì Tịnh-độ-tông cũng là một phần của Mật-tông, vì Tịnh-độ-tông dùng nhiều mật chú của Mật-tông trong các kinh nhật tụng. Cuối đời, Thiền sư Vĩnh Minh lập thêm pháp Mật-Tịnh-Thiền đồng tu để đưa hành giả tiến xa thêm một bước trên đường tu tập, trong đó Thiền là căn bản vì chiếm thời gian tu trì mỗi thời công phu nhiều nhất (sau thời trì Chú, quán tưởng, niệm Phật, kéo dài thời gian tọa Thiền bao lâu cũng được). Mật và Tịnh-độ đưa hành giả về nhất-tâm-bất-loạn để đi vào Thiền Định dễ dàng. Vì hai thời pháp nầy chỉ niệm thời gian ngắn chứ không như tụng kinh dài  làm cho tâm  dễ loạn động, mất tập trung, nhất là đối với người tu tại gia. Nhập định là vào cảnh giới Phật Bồ-Tát, là về với tâm chân thật (chân-tâm) của mình là chơn-như Phật tánh.
       Các nhà nghiên cứu về Thiền-tông chia Thiền ra làm hai loại (chứ Phật giáo không chia) : Thiền tiệm ngộ (gọi là Như Lai Thiền, Thiền Minh sát, Thiền Niệm xứ) tu theo nhân duyên với khẩu hiệu "Bình thương tâm thị đạo", và Thiền đốn ngộ (còn gọi là Tổ Sư Thiền, do các Thiền sư ở Trung Quốc sau nầy sáng tạo ra) là tu đắc pháp liền trong đời nầy. Thiền đốn ngộ chỗ thấy không khác chư Phật, song tập khí (nghiệp) chất chứa nhiều đời nhiều kiếp không thể một lúc mà tẩy trừ hết được. Như bài kệ Cổ Đức xưa có dạy, Thiền sư Thích Thanh Từ dịch ra Việt ngữ :
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Nhiều đời tập khí sâu.
Gió ngừng sóng vẫn đập,
Lý hiện niệm còn xâm.
        Gió ngừng rồi mà sóng vẫn còn đập một lúc lâu mới lặng. Ý nói  (tu) đã đạt mà sự (nghiệp) vẫn còn. Thiền đốn ngộ chuyên về lý, tu tập phải có sư phụ gần bên, vì rất dễ bị tẩu-hỏa-nhập-ma sinh điên cuồng, tàn phế, ngay cả sư phụ cũng có khi thiền bệnh. Còn Thiền Như Lai chủ yếu thực hành với khẩu hiệu “Bình thường tâm thị đạo”, chỉ cần đạt chánh niệm nơi bản thân (quán hơi thở) trong từng sát na, từng giây, từng phút, từng giờ không ngơi nghĩ.
        Theo Thiền sư Thích Trí Siêu, Tịnh-độ thuộc Đại thừa, dựa vào tha lực là niệm Phật cầu sanh về Lạc Quốc, mà quên mục đích chính của đạo Phật là tu tâm sửa tánh, giải trừ phiền não ngay trong đời sống hiện tại. Giáo lý của Phật gồm 2 phần : Chơn-không và Diệu-hữu. Thiền dựa trên Chơn-không (tâm), Tịnh-độ nương vào Diệu-hữu (tướng). Tu Thiền mà bỏ Tịnh-độ là chưa hiểu tự-tánh (vốn Chơn-không mà Diệu-hữu), tu Tịnh-độ mà bỏ Thiền là chưa hiểu tự-tâm (vốn Diệu-hữu mà không là Chơn-không). Mật-tông, Thiền-tông và Tịnh-độ-tông là ba pháp tu chính của Phật để lại dạy chúng sanh cách tu thoát khổ, tùy bệnh cho thuốc, uống vị nào trước vị nào sau tùy căn cơ chúng sanh, hay uống hai vị cùng một lúc (Thiền-Tịnh song tu). Hoặc dùng cả ba vị (Mật-Tịnh-Thiền đồng tu) như Thiền sư Vĩnh Minh, vị tổ thứ 6 của Tịnh độ tông đã đề xướng.
        Thiền-tông Trung Quốc truyền qua Việt Nam do Ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi vào đời nhà Tống bên Tàu, và phát triển một thời gian dài rồi dần mai một. Hiện tại chỉ còn Hòa thượng Thích Thanh Từ đang tiếp tục hoằng dương dòng Thiền Trúc-Lâm (từ năm 1968), do vua Trần Nhân Tông (Phật hoàng Trần Nhân Tông) sáng lập xuất phát tại Trúc-Lâm Yên-Tử. Từ đây nhiều Trúc-Lâm Thiền viện được xây dựng qui mô khắp nơi từ Bắc chí Nam. Số lượng Tăng Ni tu tập rất uy nghiêm, tinh tấn, ngày một đông đáng kể. Dòng Thiền Trúc Lâm có thể nói là dòng Thiền duy nhất hoạt động rộng rãi và được tôn vinh ở Việt Nam hiện nay, và đang phát triển mạnh ở nước ngoài. Nhiều vị chức sắc tôn giáo bạn cũng đến tham cứu và tu tập Thiền với Ngài Thanh Từ.
        Ngoài ra còn có dòng Thiền Thiên-thai-tông truyền qua Việt Nam vào thế kỷ thứ 20 cũng còn lưu hành, do Thiền sư Thích Huệ Đăng làm sơ Tổ (có sách nói do Thiền sư Thích Liễu Thiền làm sơ Tổ, Ngài sang học đạo với Thiền sư Hiển Kỳ ở chùa Thanh Sơn Trung Quốc vào thế kỷ thứ 20 rồi về nước truyền đạo), âm thầm phát triển trong các tự viện Tịnh-độ ở nhiều nơi.
      Khảo lược sơ qua lý thuyết Thiền như vậy. Nhưng ngồi Thiền là thực hành chứ không lý thuyết suông. Ta có thể bàn sâu hơn về  phương pháp ngồi Thiền  theo chánh pháp của  Bổn sư Thích-Ca-Mâu-ni Phật. Theo kinh Quán niệm hơi thở của Bổn sư thì pháp hành thiền nầy quán 16 hơi thở nơi chính hơi thở của mình, tóm tắt như sau :
- Hơi thở 1 : Hít vào một hơi dài, ta đang biết ta hít vào một hơi dài.
                    Thở ra một hơi dài, ta đang biết ta thở ra một hơi dài.
- Hơi thở 2 : Hít vào một hơi ngắn, ta đang biết ta hít vào một hơi ngắn .
                    Thở ra một hơi ngắn, ta đang biết ta thở ra một hơi ngắn.
                    (Hơi thở 1 và 2 : Để cắt đứt thất niệm, phát khởi chánh niệm).
- Hơi thở 3 : Ta đang hít vào và có ý thức về toàn thân ta.
                    Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta.
                  (Để quán niệm về thân thể và các bộ phận trong thân thể, để thấy những mầu nhiệm về sinh diệt).
- Hơi thở 4 : Ta đang hít vào và làm cho toàn thân ta an tịnh.
                    Ta đang thở ra và làm cho toàn thân ta an tịnh.
                  (Để thực hiện sự an tịnh trong cơ thể, để đạt tới trạng thái thân tâm nhất như với hơi thở).
- Hơi thở 5 : Ta đang hít vào và cảm thấy mừng vui.
                    Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui.
- Hơi thở 6 : Ta đang hít vào và cảm thấy an lạc.
                    Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc.
                  (Hơi thở 5 và 6 : Bước sang lãnh vực cảm thọ, tạo ra sự an lạc để nuôi dưỡng thân tâm, biến cảm thọ thành lạc thọ).
- Hơi thở 7 : Ta đang hít vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý của ta.
                    Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý của ta.
- Hơi thở 8 : Ta đang hít vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh.
                    Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh.
                   (Hơi thở 7 và 8 : Để quán chiếu tất cả những cảm thọ xảy ra trong ta để điều phục chúng trở nên an tịnh).
- Hơi thở 9 :  Ta đang hít vào và có ý thức về tâm ý ta.
                     Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta.
- Hơi thở 10 : Ta đang hít vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc.
                      Ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc.
- Hơi thở 11 : Ta đang hít vào và thu nhiếp tâm ta vào định.
                      Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ta vào định.
- Hơi thở 12 : Ta đang hít vào và cỡi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do.
                       Ta đang thở ra và cỡi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do.
                   (Hơi thở 9, 10, 11, 12 : Bước sang lãnh vực Tâm Ý : nhận biết, điều phục, thu nhiếp, giải thoát tâm ý).
- Hơi thở 13 : Ta đang hít vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp.
                      Ta đang thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp.
- Hơi thở 14 : Ta đang hít vào và quán chiếu tính tàn hoại của vạn pháp.
                      Ta đang thở ra và quán chiếu tính tàn hoại của vạn pháp.
- Hơi thở 15 : Ta đang hít vào và quán chiếu về giải thoát.
                      Ta đang thở ra và quán chiếu về giải thoát.
- Hơi thở 16 : Ta đang hít vào và quán chiếu về sự buông bỏ.
                      Ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ.
                    (Hơi thở 13, 14, 15, 16 : Bước sang lãnh vực đối tượng của tâm thức, chú tâm quán sát thực tướng của vạn pháp là “vô thường, tàn hoại” để giải thoát và buông bỏ).
        Quán niệm hơi thở của mỗi giai đoạn cho đến khi thành tựu,  không bị tạp nhiểm loạn động rồi mới quán niệm qua giai đoạn tiếp theo. Mỗi giai đoạn quán niệm bao lâu viên mãn tùy theo căn cơ và nhẫn nhục tinh tấn quyết tâm tu tập của mỗi hành giả.
       Tuy nhiên, để tu tập Thiền dễ thành tưu hơn, Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật đã chỉ dạy cho các đại đệ tử của Ngài pháp tu nội dung cũng như vậy nhưng tóm gọn lại. Đó là kinh Niệm-Xứ hay Thiền Tứ niệm xứ, Thiền Minh-sát.  Nhờ vậy các vị đó đã đắc quả A-la-hán rất nhanh.
        Thiền Tứ-niệm-xứ là gì ? Là phương pháp hành Thiền tự mình đạt đến trí-huệ giải thoát, tự tánh nó không phải Thanh-văn, Duyên-giác hay Bồ-Tát. Pháp tu Thiền Tứ-niệm-xứ gồm 4 giai đoạn :
        1. Niệm Thân : là quán niệm thân thể nơi thân thể của mình, bước đầu là quán niệm hơi thở vào ra nơi hơi thở của mình cho thành tựu. Sau đó quán niệm đến các bộ phận khác trong cơ thể mình xem nó thế nào rồi buông bỏ.
        2. Niệm Thọ : là quán niệm cảm giác nơi cảm giác hay cảm thọ của mình. Cảm thấy có buồn, vui, sướng, khổ, nhưng không can dự vào nó, mặc nó đến rồi đi, giống như nhìn trái bầu trôi trên mặt nước vậy. Giai đoạn nầy ta bắt đầu vào Định.
       3. Niệm Tâm : là quán sát ghi nhận những tư tưởng nẩy sinh trong tâm ta một cách khách quan, không phân biệt tốt, xấu, đúng, sai, không bám đuổi theo nó, để mặc nó tự sinh rồi tự diệt.
        4. Niệm Pháp : Pháp là đối trượng của Tâm, là quán niệm về 5 hiện tượng ngăn che (ngũ cái) : tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, nghi hối ; 5 uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; 6 giác quan : tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý ;  7 yếu tố của sự ngộ đạo (Thất giác chi) : niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, hành xả ; 4 sự thật (Tứ diệu đế) : khổ, tập, diệt, đạo. Xem tất cả những thứ đó sanh diệt thế nào rồi buông bỏ để tâm tự do an trụ trong Định, khách quan quán sát khắp vũ trụ vạn vật để trí huệ minh khai và tăng trưởng.
        So sánh kinh Niệm xứ với kinh Quán niệm hơi thở, ta thấy hai kinh là một :
        * Hơi thở 1, 2, 3, 4 thuộc về niệm thân.
        * Hơi thở 5, 6, 7, 8 thuộc về niệm thọ.
        * Hơi thở 9, 10, 11, 12 thuộc về niệm tâm.
        * Hơi thở 13, 14, 15, 16 thuộc về niệm pháp.
        Như vậy tu Thiền theo kinh Niệm-xứ gọn nhẹ, an toàn,  dễ hành hơn. Tu một đời chứ không phải tu một ngày hay một năm, do đó phải từ tốn, kiên tâm mà đi cho vững vàng, không vội vã, vì Thiền là tứ uy nghi (đi, đứng, nắm, ngồi) đều luôn nhẹ nhàng thong thã, luôn không rời chánh niệm (hơi thở). Trong pháp môn tu tập Thiền, đừng dính mắc vào hý luận Thiền Như Lai, Thiền Tổ Sư, Thiền đốn ngộ, hay Thiền tiệm ngộ. Vì những phân biệt đó thường làm tâm dễ rơi vào thiên kiến luân hồi, mất chánh niệm. Mà điều quan trọng của pháp tu Thiền là phải thực hành để đạt được chánh niệm, chứ không lý thuyết suông. Thầm thầm lặng lặng mà tu. Kinh Quán Niệm Hơi Thở hay Thiền Tứ-Niệm-Xứ, chánh pháp của Phật Thích-Ca-Mâu-Ni giúp ta đạt đến chánh niệm, đưa ta đến bến bờ giải thoát. Thiền sư Thích Trí Siêu nói : "Tu Thiền là mong cầu giải thoát, tự tu tự chứng tự ngộ, chứ không phải tu để làm thầy, để thành Tổ sư". Mình tu mình biết, không cần ai biết, không kể lể khoe khoan khi thấy đạt được một vài cảnh giới diệu kỳ nào đó (là điều chắc chắn xảy ra trên đường tu tập làm cho hành giả phấn khích, vui mừng, tự mãn), hay vỗ ngực thậm xưng ta đã đắc pháp một cách nóng vội, vì tất cả những thứ đó đều là huyễn vọng. Không tu dùm cho ai, giữ vững hạnh ba-la-mật sẽ dễ thành tựu.

NGỒI THIỀN
        Theo yêu cầu của một số quý Phật tử, xin được gợi ý phương pháp ngồi Thiền đơn giản theo Thiền Tứ-niệm-xứ, chánh pháp của Phật, như sau :
      1. Vị trí : Nơi ngồi Thiền phải yên tĩnh, sạch sẽ, thoáng mát. Có thể trong phòng rộng riêng biệt, hay đến nơi bìa rừng yên tịnh có bóng cây mát mẻ, trên bờ sông, bãi biển vắng vẻ.
        2. Đạo cụ : Một tấm nệm lót để ngồi gọi là Bồ-đoàn, có thể hình vuông chừng 4 tấc x 4 tấc, hoặc hình tròn đường kính chừng 4 tấc, dày hay mỏng tùy theo ý muốn và cơ địa của hành giả, bên dưới bồ-đoàn có thể lót thêm một cái nệm mỏng lớn hơn (chừng 1m X 1m).
        3. Thời gian : Thời gian ngồi Thiền tốt nhất là 4 thời một ngày như người xưa đã dạy (giờ Tí từ 23 giờ khuya đến 1 giờ sáng, giờ Mẹo từ 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng, giờ Ngọ từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều, giờ Dậu từ 17 giờ chiều đến 19 giờ tối), vì vào những giờ nầy là mốc chuyển của thời gian từ dương sang âm hay từ âm sang dương, hành giả đang tu tập dễ đạt chánh niệm để đi vào Định. Riêng các vị cao Tăng thì thời gian Thiền định thường kéo dài, thường là xuyên qua 2, 3 hay 4 mốc thời gian đó, thậm chí xuyên suốt nhiều ngày, nhiều tháng.
       Nhưng người tu tại gia vì còn lo công việc làm ăn hằng ngày để nuôi sống bản thân, gia đình, có dư ra thì bố thí, phóng sanh để trả nghiệp xưa. Vì thế chỉ cần mỗi buổi tối, mỗi buổi sáng chọn thời gian thích hợp để công phu cho viên mãn cũng đủ. Khi nào thong thả nghỉ hưu thì chuyên tu. Tâm tu là trọng.
        Xin lưu ý hành giả : trước khi ngồi thiền phải đánh răng súc miệng sạch sẻ để khử hết các mùi vị trong miệng sẽ làm cho nước miếng dễ tiết ra nhiều ảnh hưởng quá trình hành thiền.
        4. Tư thế : Có ba tư thế ngồi Thiền chính : ngồi kiết già (bàn chân nầy lật ngữa bắt chéo lên trên vế chân kia)ngồi bán già (là bàn chân nầy lật ngữa bắt chéo lên vế chân kia, còn bàn chân kia lật ngữa lót dưới vế chân nầy)ngồi thường (là ngồi xếp bằng bình thường, bàn chân nầy lật ngữa đặt dưới vế chân kia). Chủ yếu ngồi sao cho thân cân đối, ngay thẳng, dễ chịu, thoải mái là được. Thân có an thì tâm mới định (như tư thế ngồi tự nhiên của Bồ-Tát Di-Lặc ta thấy thoải mái tự tại vô cùng). Lưng thẳng góc 90 độ với mặt đất, đầu thẳng hơi cúi xuống trước một chút thôi, mắt mở hé nhìn chóp mũi để khỏi bị hôn trầm (buồn ngủ), miệng ngậm lại nhẹ hơi mĩm cười, hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau, đầu lưỡi chạm nhẹ lên nếu trên. Hai cánh tay thong thã duỗi dọc theo hai bên hông. Hai bàn tay duỗi thẳng 4 ngón chồng lên nhau phía trước bụng, ngón tay phải chồng trên ngón tay trái, hai cổ tay tì lên bẹn, hai đầu ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau, gọi là ấn Tam-muội (chánh định). Nếu thấy hai bàn tay bị hỏng thì lấy cái gối nhỏ lót dưới hai bàn tay cho cân đối thoải mái.
         Tâm quán tưởng hình ảnh tư thế Thiền-định của một vị Phật Bồ-Tát rồi dung nhiếp tư thế đó với ta, xem ta với các Ngài là một. Lúc nầy ta đạt được bước đầu nhất tâm bất loạn.
        Sau khi đã chỉnh bị tư thế trang nghiêm tịnh độ rồi, có thể niệm Phật, niệm Chú để đưa tâm về an định, rồi bắt đầu đi vào hành Thiền theo pháp Thiền Tứ-niệm-xứ :
        5. Hít thở : Hít vào từ từ... thật sâu bằng bụng cho bụng căng lên để nạp thanh khí vào cơ thể, rồi từ từ thở ra... nhẹ nhàng cho bụng xẹp lại để đẩy tạp khí ra khỏi cơ thể. Làm như thế ba lần. Nên hít thở bằng bụng để đưa khí về rốn (huyệt Đan-điền) là trung tâm và khởi nguồn của sự sống. Khi còn trong bụng mẹ ta nhận mầm sống từ mẹ quan rốn dính liền với nhau thai, nên sự sống của con người bắt đầu từ rốn chứ không đâu khác. Hít thở bằng ngực dễ làm thân động, đau ngực và chóng mệt. Vì ngồi Thiền thân phải bất động. Khi thấy ai đó làm một việc tốt, ta thường nói người đó tốt bụng chứ không nói tốt ngực, cho nên bụng thường chứa những điều tốt lành. 
        Xong, hít... thở... bình thường bằng mũi, từ tốn, nhẹ nhàng, tự nhiên. Trong quá trình hít... thở..., tâm luôn luôn không rời hơi thở để giwx vững chánh niệm, nếu quên thì phải quay lại ngay, không nãn lòng. Trong quá trình ngồi Thiền, thỉnh thoảng nên hít thở sâu bằng mũi một lần nhẹ nhàng để hơi thở khỏi bị ức chế.
        Từ đây hành giả đã thành tựu 3 pháp định : thân trụ Kim cang pháp, tay kiết Tam muội ấn, Tâm thường quán chiếu hơi thở vào ra, để tâm an lạc tự tại lắng nghe :
Nốt thiền reo giữa cung khuya,
Nghe trong tĩnh lặng tâm lìa bến mê.
Chơn-như dạo lối đi về,
Đường xuân sương lạnh, trăng kề bên môi...
                                                           (thơ Xuân thiền)
         6. Vào Thiền : Giai đoạn đầu gọi là Niệm Thân. Bắt đầu mỗi thời tu tập ít nhất cho được 15 phút, giữ cho nhất tâm bất loạn, nghĩa là không quên hơi thở, giữ vững chánh niệm. Lần lần tiến lên 20, 30 phút, rồi 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ… Cho đến khi nhận biết có chuyển biến trong tâm, như cảm nhận những hiện tượng kỳ diệu (nhưng buông bỏ ngay) hay thấy tâm trạng đầy hoan hỷ, an lạc… Khi đã thuần thục, tiếp tục quán niệm về các bộ phận trong thân thể của mình xem nó sanh diệt thế nào, nhưng vẫn không rời chánh niệm là bám sát hơi thở vào ra đều đặn. Hít... thở...
        Các bước Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp tự nhiên khởi hiện tiếp theo khi ta đã viên mãn pháp niệm thân (có thể tham khảo thêm kinh Quán niệm hơi thở do Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch, hay sách Thiền Tứ-niệm-xứ do Thiền sư Thích Trí Siêu viết, sách mỏng thôi). Tuần tự tu tập cho đến khi thành tựu, mau hay chậm là do sự quyết tâm tu tập, nhẫn nhục và tinh tấn hành trì, do duyên nghiệp và do cơ địa của mỗi hành giã. Có điều kiện nên tìm Thầy chỉ giáo thêm hay tìm hành giả nào đã tu tập pháp môn nầy trước mình để tham khảo.
        Xin chú ý, trong thời gian tu tập, hằng ngày làm việc cũng như khi công phu phải luôn luôn không rời hơi thở, luôn nhớ mình đang thở. Xem hơi thở là dòng sông thanh tịnh mình đang tự-tại bên bờ. Tất cả những hiện tượng, cảnh giới nếu có sinh khởi đều để nó trôi tự do trên dòng sông hơi thở rồi tự nó tan biến trong dòng nước thanh tịnh của dòng sông, không dính mắc vào nó. Phải luôn tâm niệm rằng hơi thở là sự sống, nhớ hơi thở là nhớ mình đang tự-tại, quên hơi thở là quên sự sống của mình. Khi còn hàn vi và tu tại gia (Bây giờ thì siêu hàn vi, hihi...), có người bạn gái thân thiết (nay đã là một ni cô ẩn tu tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt) hỏi tôi : "Cuộc sống khó khăn như thế mà tại sao anh vẫn vui cười tươi tỉnh vậy ?". Tôi vui vẻ trả lời : "Anh sống bằng nước, không khí và tình yêu ! Hahaha...". Nước là Cam lồ thủy, không khí là hơi thở, tình yêu là của Phật, Bồ-Tát và chúng sanh ban cho.
        Cho nên hành Thiền Tứ Niệm Xứ là ta đang âm thầm tô bồi thêm chất liệu sống cho thân tâm ta, làm cho thân ta khỏe mạnh không bịnh tật, cho tâm ta an lạc, hoan hỷ, hạnh phúc, cho trí huệ ta minh khai thăng tiến vượt bậc, tự ta đẩy lùi, hóa giải được nghiệp xưa. Như vậy ta đang sống trong cảnh giới Hữu-dư-niết-bàn ngay trong cuộc sống nầy rồi đó. Nhẫn nhục và tinh tấn tu tiếp (tu bố thí, phóng sanh, tu 10 hạnh Phổ-Hiền,...) để khi vãng sanh chắc chắn sẽ về cảnh giới Vô-dư-niết-bàn, tức Lạc Cảnh, Lạc Quốc, cõi Phật. 
        Trí huệ gồm hai phần : Trí và Huệ. Trí thuộc Diệu-hữu nằm ở phần vỏ nảo nên còn chấp huyễn vọng sanh diệt, còn nằm trong luân hồi lục đạo. Huệ thuộc Chơn-không nằm ở phần trung nảo nên trực giác minh mẫn, vô chấp, thảnh thơi, thoát ra ngoài sanh tử luân hồi. Chúng sanh chấp Trí, Phật Bồ-Tát thường hằng Huệ.
        7. Xả Thiền : Hết thời gian công phu, hành giả vẫn nhắm mắt, chắp tay xá 3 xá cảm ơn Chư Thiên Hộ Pháp đã chở che giúp mình tu tập không cho ngoại tà xâm nhập quấy phá. Vì khi hành Thiền ta luôn được sự gia trì phù hộ của Chư Thiên, nhiều khi còn nhìn thấy họ trong cảnh giới Thiền nữa. Sau đó theo thứ tự làm các động tác sau, mắt vẫn nhắm lại :
        a/ Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên. Lấy bàn tay nầy bóp nhẹ các đầu ngón tay kia mỗi bên 10 lần, rồi dùng đầu ngón tay cái nầy ấn và day mạnh lên giữa lòng bàn tay kia (huyệt Lao-cung) mỗi bên 20 lần, 4 ngón tay còn lại áp giữ mu bàn tay.
        b/ Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi vuốt nhẹ hai bàn tay song song từ dưới cằm lên mặt, lên đầu, ra sau ót giáp vòng liên tục 10 lần.
        c/ Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi dùng 3 ngón trỏ, giữa và áp út vuốt nhẹ lên 2 mắt từ sóng mũi ra khóe mắt 10 lần. Xong mở mắt ra.
        d/ Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi dùng 3 ngón trỏ, giữa và áp út vuốt nhẹ lên miệng từ giữa miệng ra hai khóe miệng 10 lần trong tư thế miệng mĩm cười.
        đ/ Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi lấy 2 ngón cái và lườn 2 ngón trỏ cầm và vuốt 2 trái tai từ trên xuống 10 lần.
        e/ Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi dùng 2 bàn tay xoa vòng tròn lên 2 bên bụng từ trong ra ngoài 20 lần, lấy lỗ rốn làm điểm chạm nhau đầu các ngón tay khi xoa. Tiếp tục đưa 2 bàn tay ra sau ngang thắt lưng chà mạnh lên xuống dọc theo hai bên xương sống 20 lần.
        f/ Duỗi 2 chân ra, kéo 2 bàn chân vào giữa. Xoa 2 bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi bóp nhẹ các đầu ngón chân mỗi bên 10 lần. Sau đó lấy 2 bàn tay nắm 2 bàn chân lại, dùng đầu ngón tay cái ấn mạnh và day vào chỗ lõm giữa 2 bàn chân (1/3 bàn chân tính từ trên xuống, chỗ ấn mạnh vào thấy nhói nhói, gọi là huyệt Dũng-tuyền) mỗi bên 10 lần. Xong từ từ đứng lên, xá 3 xá rồi ra ngoài.
           Làm xong các bước xả Thiền trên là hành giả đã xong một thời công phu. Minh mẫn trở lại công việc hằng ngày của mình để nuôi sống bản thân, gia đình, có dư ra thì bố thí, phóng sanh để trả nghiệp xưa.
           Nếu thấy không cần thiết hành giả có thể bỏ bớt phần xả thiền cũng không sao, vì nó thuộc về tướng pháp, chỉ lạy tất lễ là đủ. Tuy nhiên, nó cũng đạt dược một số lợi ích nhất định như :
         - Kéo dài 2 khóe mắt ra là tướng đa cảm để trải lòng yêu thương vô lượng với mọi loài chúng sanh.
          - Kéo dài 2 khóe miệng ra là tướng luôn mĩm cười bao dung trước những huyễn vọng sanh diệt của cuộc sống.
          - Kéo dài 2 trái tai xuống là tướng phúc thọ để sống lâu giúp đời.
         - Day mạnh các đầu ngón tay ngón chân là để dẫn khí huyết lưu thông đến những nơi cuối cùng của cơ thể.
        - Ấn mạnh vào các huyệt Lao cung và Dũng tuyền để phong bệnh và chữa bệnh cho thân,...
      Ngoài pháp ngồi Thiền trên (tọa Thiền) còn có các pháp : hành Thiền (đi Thiền), trụ Thiền (đứng Thiền), ngọa Thiền (nằm Thiền) là những pháp Thiền các vị cao Tăng thường sử dụng, gọi là thường Thiền. Hay trong quá trình tu Thiền chẳng may bị ốm đau không ngồi được cúng dùng một trong các pháp trên. 

        Tu Thiền là sáng tạo ra cách hành cho riêng mình, hợp với khế cơ, nhưng không ra ngoài chánh pháp của Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật. Trên đây là mạn đàm tu tập Thiền Tứ-niệm-xứ mà bản thân đã thực hành mấy mươi năm qua rất tự chủ, thoải mái, nhẹ nhàng, viên mãn, để xin được góp thêm vào dòng sông Thiền vô tận một dòng nước trong nho nhỏ. 
          Ngồi Thiền để minh khai trí huệ, phước sanh đời đời. Học sinh, sinh viên ngồi Thiền trí thông minh phát triển, học tập tiến bộ, làm bài nhanh chóng. Công nhân, nông dân ngồi Thiền lao động an toàn, hiệu quả. Trí thức ngồi Thiền kiến thức dồi dào hơn, trí óc minh mẫn hơn, sáng tạo sung mãn hơn. Người già ngồi Thiền ít bệnh tật, ngủ ngon giấc, an lạc, sống lâu,...
        Chúc quý hành giã ngồi Thiền theo Thiền Tứ-niệm-xứ đạt được nhiều thành tựu vững vàng hơn nữa trên đường tu tập. Hẹn gặp nhau tại ngôi nhà chung của chúng ta.
        Quý vị nào muốn ngồi Thiền, hãy thử bước vào Thiền Tứ-niệm-xứ,  chánh pháp của Phật để trãi nghiệm. Thành tựu đạt được (chắc chắn là được) là cơ duyên lớn vô cùng  trên đường tu hành, tiến bước vững vàng trên đại lộ dẫn về ngôi nhà chung An-lạc-quốc của Phật.
         Tổ sư Thiền ngày xư đã nói : "Một giờ Thiền là một giờ Phật, một ngày Thiền là một ngày Phật, một đời Thiền là một đời Phật". Ý nói, vào Thiền-định là nhập vào cảnh giới Phật vậy.
Tham Thiền nhập Định khó chi,
Nương theo hơi thở ta đi về nhà.
          Với hoài bảo góp phần nhỏ bé hoằng dương dòng Thiền chánh pháp của Phật, nên không tránh khỏi nhiều thiếu sót thiển cận. Con cúi mong trên Chư Tôn Đức niệm tình hoan hỷ chỉ bày thêm. Rất mong đón nhận ý kiến quý báu của các vị Thiện tri thức gần xa.
 Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-Tát,
Nam mô thường tinh nhẫn Bồ-Tát,
Nam mô thường hoan hỷ Bồ-Tát tát đại chứng minh.

                                                                           Nguyên Chương
                                                                          mạn đàm
                                                                            (Bình Dương, tháng 5-2015)



          (1) Tương truyền rằng : Đại sư Vĩnh Minh, Tổ thứ 6 của Tịnh-độ-tông, là Phật A-Di-Đà hóa thân. Vào thời đó Vua Ngô Việt Vương hỏi Đại sư Vĩnh Minh : "Thời nay có bậc chân Tăng nào khác ngoài Đại sư không ?".  Đại sư đáp : "Có Hòa thượng Hành Tu có đôi tai dài chính là Phật Định Quang ứng hóa thân đó". Vua Việt Vương liền đến đảnh lễ Đại sư Hành Tu và nói lại ý của Đại sư Vĩnh Minh. Sư Hành Tu bảo : "Vĩnh Minh Đại sư khéo bày chuyện, ông ta chính là Phật A-Di-Đà ứng hóa thân đó". Nói rồi Đại sư lặng yên mỉm cười thị tịch. Vua Việt Vương hốt hoảng quay trở về chùa Vĩnh Minh thì Đại sư Vĩnh Minh cũng vừa viên tịch. Lúc đó là 10 giờ ngày 17-11 năm 975. Vì thế người Trung Quốc lấy ngày ấy làm ngày vía Phật A-Di-Đà rồi truyền sang các nước lân cận. Chứ thật ra Phật A-Di-Đà bất sanh bất diệt từ muôn ngàn xưa. Và hình như ở các nước gốc Phật không có ngày nầy.  (Nguyên Chương sưu tầm).

Bìa sách PP NGỒI THIỀN

2 nhận xét: