NGHIỆP
&
CHƯỚNG
NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm
TỊNH THẤT NGUYÊN CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh
tỉnh Quảng Nam
tỉnh Quảng Nam
ấn tống
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Trong sinh
hoạt hằng ngày, mỗi khi gặp điều gì trắc trở bất như ý dẫn đến phiền muộn ưu
tư, người Phật tử thường than thở : “Ôi, sao đã tu hành nhiều năm rồi mà nghiệp
chướng còn nặng nề đến thế, biết khi nào trả cho hết đây”.
Thật ra dùng từ nghiệp chướng nói trên
chỉ là một phần trong cái toàn phần của NGHIỆP và CHƯỚNG. Nghiệp là nhân,
Chướng là quả. NGHIỆP có ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp. Ý nghiệp đứng
đầu, vì trước khi làm việc gì chúng ta phải suy nghĩ (ý), nói ra, bàn bạc
(miệng) rồi mới hành động (thân). CHƯỚNG có nghiệp chướng, báo chướng và phiền
não chướng.
Bây giờ chúng ta thử đàm đạo sâu hơn về
NGHIỆP và CHƯỚNG để cùng nhau liễu đạo tu hành nhé.
I. NGHIỆP
Nghiệp là tiếng Tàu, tiếng Phạn là Karma, phiên âm là Yết-ma. Khi ta tạo
tác ra việc gì dù thiện hay không thiện đều phát sinh Nghiệp. Việc tạo tác đó nếu kết quả là thiện thì gọi là thiện
nghiệp, nếu kết quả là không thiện thì gọi là bất thiện nghiệp. Làm điều thiện
thì sẽ thuận buồm xuôi gió, kết quả hài lòng. Nếu làm điều bất thiện thì sẽ gặp
trắc trở gian nan, hậu quả khó lường.
Nghiệp do ý nghĩ, miệng lưỡi, thân thể
tạo ra. Phật gọi là Tam nghiệp : thân, khẩu, ý, Việt đọc theo tiếng Tàu viết từ
phải sang trái. Đọc theo tiếng Việt viết từ trái sang phải là : ý, khẩu, thân, vì ý dẫn đầu trong ba nghiệp. Trong cuộc sống hằng ngày, dù vô tình hay cố ý chúng ta đều tạo ra
không biết bao nhiêu là nghiệp từ ý, miệng, thân. Mới khởi lên ý nghĩ đầu tiên
là tạo nghiệp, mới mở miệng ra là tạo nghiệp, mới cử động thân thể là tạo
nghiệp. Chết đi cũng chưa hết tạo nghiệp đâu. Vì sao vậy ? Vì ta chết đi sẽ làm
cho gia đình thương khóc, buồn đau, rồi phải lo tiền để tẩm liệm, lo chôn cất,
xây mồ mã to đẹp tốn kém, rồi phải giết mổ heo gà để cúng tế tạo ra ác nghiệp
sát sanh, rồi bà con xóm giềng phải đến phúng viếng bận rộn,... Còn nữa, nếu
khi sống ta sống tốt thì sẽ được ca tụng tôn vinh tốn bao giấy mực, nếu sống
không tốt thì sẽ bị bàn tán chê bai mất hết thời gian. Nếu ta không chết thì
những việc đó đâu có xảy ra phải không ? Chắc là không. Nên khi còn sống ta
phải làm gì đây để không tạo nghiệp ? Xin cùng nhau đàm đạo sâu hơn về ý
nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp để thấu đáo phần nào trên đường tu.
1.
Ý NGHIỆP : Khi ta khởi lên suy
nghĩ về một công việc gì đó là tạo ý nghiệp. Nếu nghĩ phải làm việc thế nào cho
chính đáng, có lợi cho ta nhưng đừng hại ai, gọi là thiện ý nghiệp. Nếu suy
nghĩ phải làm sao lừa người nầy, gạt người kia, hại người nọ để có lợi cho
mình, gọi là ác ý nghiệp.
2.
KHẨU NGHIỆP : Suy nghĩ rồi thì
nói ra, bàn bạc cách làm sao cho có kết quả, gọi là khẩu nghiệp. Nếu bàn bạc
làm thế nào cho công việc tốt đẹp, lợi mình lợi người gọi là thiện khẩu nghiệp.
Còn nếu bàn bạc toan tính mưu đồ bất chính lợi mình hại người gọi là ác khẩu
nghiệp.
3.
THÂN NGHIỆP : Suy nghĩ, bàn bạc rồi
thì hành động gọi là thân nghiệp. Hành động tốt cho mình và cho người gọi là
thiện thân nghiệp. Hành động có lợi mình mà hại người gọi là ác thân nghiệp.
Muốn cho ý, khẩu, thân được hoàn toàn
tinh sạch, thuần thiện thì ta phải diệt tham, sân, si. Tham là thân ham muốn
nhu cầu đủ thứ, sân là miệng ăn nói lung tung bất thiện, si là tâm mê mờ điên
đảo bất tịnh. Diệt tham, sân, si là sống biết đủ (tri túc), ít ham muốn (thiểu
dục), ăn nói phải lựa lời chân thật dịu dàng (ái ngữ), suy nghĩ phải chín chắn chân chính (thiện ý).
II. CHƯỚNG
Chướng là
tiếng Tàu, nghĩa là trở ngại. Như trên đã nói, có nghiệp là có chướng, dù đó là
thiện nghiệp hay ác nghiệp. Chướng có : nghiệp chướng, báo chướng và phiền não
chướng.
1.
NGHIỆP-CHƯỚNG : Nghiệp-chướng là
trở ngại do nghiệp tạo ra trong đời nầy kiếp nầy. Cũng như nghiệp, chướng có
thiện chướng và bất thiện chướng. Vì sao làm việc thiện mà gặp chướng ? Vì khi
làm một việc thiện thì thường tâm ta dấy khởi hoan hỷ, đắc ý, tự mãn, như vậy
là chấp, làm chướng ngại cho đường tu. Vì thế làm việc thiện với tâm vô chấp,
làm mà không cần người khác biết đến việc mình làm, gọi là “Thi ân bất cầu
báo”, thì sẽ không gặp chướng.
2.
BÁO-CHƯỚNG : Báo-chướng là trở
ngại do nghiệp tạo ra từ kiếp trước, kiếp nầy phải nhận. Muốn hóa giải
báo-chướng thì ngay trong đời nầy kiếp nầy ta phải làm thật nhiều việc thiện để
bù lại, tránh làm điều ác.
Đức Khổng Tử bên Tàu đã dạy : "Thiên bạc ngã dĩ phúc, ngô hậu ngô đức dĩ bồi chi" (nghĩa là : Trời làm mỏng phúc phận ta, thì ta làm dày công đức để bù lại).
Đức Khổng Tử bên Tàu đã dạy : "Thiên bạc ngã dĩ phúc, ngô hậu ngô đức dĩ bồi chi" (nghĩa là : Trời làm mỏng phúc phận ta, thì ta làm dày công đức để bù lại).
3.
PHIỀN-NÃO-CHƯỚNG : Phiền-não-chướng
là do chưa hóa giải hết được nghiệp-chướng và báo-chướng, cộng thêm chấp trước
quá nhiều trong cuộc sống hằng ngày nên sinh ra phiền não trong đời nầy kiếp
nầy. Phiền-não-chướng làm ta mất hết định
và tuệ. Vì mất hết định tuệ nên tâm
mê mờ dẫn đến tâm điên đảo, làm cho thân trôi lăn mãi trong luân hồi lục đạo.
Muốn giải trừ hết chướng do nghiệp tạo
ra, Phật dạy ta phải tu GIỚI-ĐỊNH-TUỆ. Giới-định-tuệ là gì ?
- Giới là giới luật của người tu hành phải
tuân thủ nghiêm mật. Tại gia có ngũ giới, xuất gia thọ Sa-di có 10 giới, thọ
Tì-kheo có 250 giới, thọ Tì-kheo-ni có 314 (?) giới,…
- Định là luôn giữ tâm thanh tịnh, nhất
tâm bất loạn.
- Tuệ là đỉnh cao của trí, ta thường
gọi chung là trí-tuệ. Khi đã giữ
giới viên mãn, giữ tâm thanh tịnh rồi thì trí-tuệ tự nhiên sẽ khai mở, sẽ thấy biết được
hết huyễn vọng sanh diệt của thế gian nầy để an nhiên tự tại tu hành đắc pháp.
Ngoài ra, muốn hóa giải được nghiệp và
chướng, người Phật tử chỉ cần tin ngưỡng làm theo lời Phật dạy:
Không làm các điều ác,
Phải làm các việc thiện,
Giữ lòng cho trong sạch,
Đó là lời Phật dạy.
(Chư tác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo)
Tóm lại, dù làm việc thiện hay ác cũng
đều tạo nghiệp cả. Nói như vậy chẳng lẻ ta bất động không làm gì cả để không
tạo nghiệp ư ? Không phải vậy. Nếu không suy nghĩ gì cả, không nói năng gì cả,
không làm gì cả thì là người vô tri giác, mà vô tri giác là như gỗ đá rồi, là
chết rồi. Tất cả thiện hay ác đều do tâm tạo và nằm trong Luật nhân quả, còn nằm trong lục đạo, tức sáu
nẻo luân hồi : (trời, người, a-tu-la
(thuộc thiện nghiệp), ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục (thuộc ác nghiệp).
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu.
Vậy làm thế nào trong khi vẫn suy nghĩ,
bàn bạc, làm việc để sinh sống mà không vướn nghiệp ?
Rất đơn giản ! Sau mỗi ngày làm việc
chuyên cần, chính trực, ta chỉ cần ngồi lại tỉnh táo (tịnh tâm) làm hai phép tính cộng và trừ là giải được ác nghiệp và chướng ngay trong đời nầy kiếp nầy. Nghĩa là ta phải thường làm việc
thiện cho thật nhiều, nếu vô tình gây ác nghiệp, thì làm phép cộng trừ ta sẽ có
thiện nghiệp nhiều hơn, là ta đã giải được chướng và gieo được ruộng phước cho
đời sau. Hơn nữa, chướng của thiện nghiệp luôn nhỏ hơn rất nhiều so với chướng
của ác nghiệp, chỉ trong muôn một thôi. Vì thế Phật dạy người Phật tử phải TU
TỊNH NGHIỆP, tức tịnh tam nghiệp, là tịnh ý, tịnh khẩu, tịnh thân. Hằng ngày
bất cứ làm việc gì đều phải suy nghĩ, nói năng, hành động tỉnh táo, khôn ngoan,
nhẹ nhàng, chín chắn, phòng tránh mọi rủi ro dẫn đến hậu quả không tốt. Được
như thế ta sẽ vẫn sống, vẫn làm việc, vẫn suy nghĩ, mộng mơ mà không còn tạo
nghiệp và chướng nữa.
Ngoài ra, có một pháp tối thượng hóa
giải được nghiệp và chướng, là tin ngưỡng tinh tấn thường niệm danh hiệu Phật
để thân tâm an tịnh. Niệm Chú cũng là niệm Phật. Vì niệm danh hiệu Phật là niệm
một câu một Phật, còn niệm Chú là niệm
một câu dung nhiếp nhiều Phật. Như niệm một
câu Chú Chuẩn-Đề dung nhiếp 700.000 Đức Phật (thất-câu là bảy ức, tức 700.000). Như kinh dạy đảnh lễ :
Sở Thuyết Đại Chuẩn Đề Đà La Ni.
(Kính
lạy 700.000 Đức Phật cùng nói
Chuẩn
Đề Đà La Ni)
Xin được phép tạm dừng cuộc mạn đàm tại
đây. Con cúi xin trên Chư Tôn Đức nếu có gì sai sót thì hoan hỷ và chỉ dạy
thêm. Mong quý chư Thiện tri thức góp ý bổ sung để cuộc mạn đàm thêm đầy đủ và
ý nghĩa hơn nữa.
Nam mô Trừ Cái Chướng Bồ-Tát,
Nam mô thường tinh nhẫn Bồ-Tát,
Nam mô thường hoan hỷ Bồ-Tát,
Phú Ninh Quảng Nam, tháng 9-2015
NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét