BỐN
CHÂN LÝ
NHIỆM
MẦU
(Tứ Diệu Đế)
NGUYÊN CHƯƠNG
Mạn đàm
TỊNH THẤT NGUYÊN CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh
tỉnh Quảng Nam
tỉnh Quảng Nam
ấn tống
Tứ Diệu Đế (Bốn chân lý nhiệm mầu) là kinh đầu tiên
của Đức Phật Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni sau khi đắc đạo đã thuyết pháp cho
năm anh em Kiều Trần Như (Kiều-trần-như,
Ác-bệ, Thập-lực, Ma-ha-nam và Bạt-đề) tại vườn Lộc Uyển (vườn Nai) gần thành phố Ba-la-nại linh
thiêng của Ấn Độ ngày xưa, là bạn đồng tu khi Ngài đến tu khổ hạnh bảy năm ở
đây mà không có kết quả. Khi đắc đạo, Phật đã nghĩ tình xưa đến thuyết pháp
trước tiên, năm anh em Kiều Trần Như nghe xong liền ngộ đạo và chứng quả
A-la-hán.
Từ kinh ngắn đầu tiên nầy gọi là KINH
GIẢI THOÁT, qua 49 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã diễn giải ra hàng nghìn
kinh khác nhau để giáo hóa chúng sanh từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hữu vi
đến vô vi. Là một Phật tử, nếu chưa hiểu biết, trãi nghiệm, thực hành và thấu
đạt kinh Tứ-Diệu-Đế trên đường tu thì chưa thể liễu ngộ Phật pháp dù đã quy y
Tam Bảo. Vì nó là giáo lý căn bản đầu tiên mà người tu tại gia hay xuất gia
phải nắm vững và thấu đạt để tu giải thoát. Tu là để giải thoát chứ không phải
tu để làm Tổ sư, làm thầy để trôi lăn mãi trong luân hồi sanh tử. Vì là đầu
tiên nên gọi là Giáo lý Nguyên thủy, chứ không phải giáo lý riêng của Phật giáo
Nguyên thủy. Đây là giáo lý mà mọi pháp môn từ Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ
tông, Nguyên thủy hay Đại thừa đều phải quán triệt trước khi tiến tới thâm nhập
pháp môn thâm cao mình chọn để tu.
Vậy TỨ-DIỆU-ĐẾ là gì ? Là 4
phương pháp nhận biết khổ đau, nhìn thấy được khổ đau,
tìm ra nguyên nhân khổ đau, tìm cách diệt khổ đau, và phương pháp để
diệt khổ đau. Nó gói gọn trong bốn phần : Khổ đế - Tập đê - Diệt đế - Đạo
đế.
Bây giờ chúng ta thử
cùng nhau bàn sâu hơn vào nội dung của bốn chân lý vĩ đại nầy để tin ngưỡng lời
Phật dạy quyết tâm tu hành thoát khổ nhé.
1. KHỔ
ĐẾ :
Trong cuộc mưu sinh hằng ngày, con
người hay loài vật, gọi chung là chúng sanh, đều có mưu cầu sự sống hoàn hảo
nhất cho mình, dù là sống thiện hay sống bất thiện. Để hoàn thành mưu cầu đó
nên phải hao tâm tổn sức kiếm tìm phương cách thực hiện, nên phải khổ. Giàu
cũng khổ, nghèo cũng khổ, mạnh khỏe cũng khổ, ốm đau cũng khổ,... Mới sinh ra
đã cất tiếng khóc chào đời đã biết khổ, vì khổ nên mới khóc. Khi ốm đau hoạn
nạn thì khổ. Già lại yếu đuối, đi lại khó khăn, răng rụng ăn khó nhai, tính
tình khó chịu, là khổ. Chết đi cũng khổ, vì nếu không tu thì không biết mình sẽ
đi về đâu, lo lắn sợ hãi nên khổ. Khổ cũng có thiện khổ và ác khổ, vì tất cả
đều phải đem tâm ra lo lắng. Phiền não trần lao là nguồn gốc của khổ.
Sau những lạc thú mà chúng sanh đeo đuổi
cuối cùng chỉ còn lại khổ đau mà thôi. Ngay cả khi họ tìm kiếm được một vài sự
hài lòng nào đó, rồi họ cũng chán nản với nó, chẳng khi nào có sự thỏa mãn và
an lạc thật sự. Lòng tham không đáy thì
phải khổ. Nên đạo Phật gọi đời là bể khổ trầm luân.
Nghĩa cử bố thí đẹp (ảnh minh họa)
2. TẬP
ĐẾ :
Tập là tập trung, tập hợp,
gom lại. Tập-đế là tập trung tư
tưởng để tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc gây nên khổ, vì đâu, do đâu mà khổ.
Chúng sanh thấy khổ thì hay khổ, chỉ than “khổ quá đi thôi” mà không biết tìm
ra nguyên nhân do đâu mà sinh ra cái khổ. Vì màn vô minh che lấp nên chúng sanh
không nhận ra thực tướng của vạn vật, cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo của cuộc
sống, trôi lăn mãi trong luân hồi sanh tử để tạo ra nghiệp, là nguyên nhân sinh
ra khổ.
Khi tâm trí con người đầy những tham
vọng, là nguyên nhân dẫn đến tất cả những khổ đau vì lo lắng, suy nghĩ. Như
người giàu tham đắm gia sản của mình, thì tính keo kiệt tiết của sẽ làm họ đau
khổ vì tính toán lo âu. Còn người nghèo thì vì không có gia sản nên lo sợ bị
thiếu thốn đói khát, bệnh tật không có tiền thuốc thang. Tất cả sống trong cõi
ta-bà nầy đều khổ.
3.
DIỆT ĐẾ :
Diệt là tiêu diệt, loại bỏ, từ bỏ, buông
bỏ, xả bỏ. Diệt đế là tìm cách tiêu diệt, loại bỏ khổ đau trong đời sống, chấm
dứt khổ đau để có được sự bình yên thân tâm. Khi đó chúng sanh sẽ sống trong
cảnh giới hoàn toàn an lạc, gọi là cảnh giới Hữu dư niết bàn ngay trong đời
nầy. Từ đó tiếp tục tu hành để đắc quả vị A-la-hán, Bồ-Tát. Khi chết sẽ được về
cảnh giới thần tiên gọi là Vô dư niết bàn. Được gần gũi Phật, Bồ-Tát, thánh
hiền, được Phật, Bồ-Tát, thánh hiền dạy dỗ tu học để thành Phật, đời đời không
còn sanh lại về cõi ta-bà mãi trôi lăn trong luân hồi lục đạo.
Khi chúng ta tẩy trừ tất cả những tham
dục ra khỏi tâm trí của mình rồi thì khổ đau sẽ chấm dứt. Chúng ta sẽ tận hưởng
an lạc hạnh phúc mà không có ngôn từ nào có thể diễn tả được.
4.
ĐẠO ĐẾ :
Đạo là con đường, đế là cái gốc,
là căn bản, là chân lý. Đạo-đế là con đường, là phương pháp hữu hiệu để diệt
trừ tận gốc khổ đau trong đời nầy, để có đời sống an vui tự tại trong cảnh giới
Hữu dư niết bàn ở trần gian. Từ nội dung Đạo đế nầy, Đức Phật đã dạy chúng sanh
muốn diệt hết khổ đau ngay trong đời nầy thì phải diệt Tam độc (tham, sân, si),
phải tu Tịnh tam nghiệp (tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh ý), tu hạnh Tứ vô lượng tâm (từ, bi,
hỷ, xả), phải thực hành Bát-chánh-đạo
(chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh định, chánh huệ) là kinh
thứ hai Đức Phật đã giảng tại Bồ Đề Đạo Tràng nước Ấn Độ sau khi đắc đạo.
Trong Đạo-đế Phật còn dạy tu Thất-bồ-đề-phần (tức Thất giác chi), là 7 pháp tu để thành tựu đạo quả :
1.
Trạch pháp : Là lựa chọn pháp môn thích hợp với căn cơ, hoàn cảnh để
tu. Làm lành lánh dữ.
2.
Tinh tấn : Là tu hành thì phải tinh tấn, diệt tham, sân, si.
3.
Hỷ : Là luôn giữ tâm hoan hỷ, bình đẳng.
4.
Khinh an : Là thân tâm luôn nhẹ nhàng an ổn.
5.
Niệm : Là luôn giữ đúng chánh pháp để tu, không tơ tưởng tà vạy.
6.
Xả : Là buông bỏ tất cả, không dính mặc vào những phiền não của cuộc sống.
7.
Định : Là luôn giữ tâm an tịnh, tập trung vào pháp mình đang tu, không
tham cầu nhiều pháp.
Nếu thực hành viên mãn Thất-bồ-đề-phần
sẽ đạt được 4 kết quả sau :
1. Tiêu trừ được nghiệp ác kiếp xưa và
hiện đời,
2. Pháp lành sẽ tăng trưởng,
3. Thân tâm luôn được an lạc,
4. Sẽ chứng đắc được Phật quả trong đời
nầy.
Nếu chúng ta tránh làm hại đến sự sống
của người khác và loài vật, nếu chúng ta tập trung được ý chí của mình để làm
việc thiện, và nếu chúng ta quyết tâm tu hành để tự khai mở được trí huệ, thì
mỗi người chúng ta đều có thể tận hưởng hạnh phúc trọn vẹn, chấm dứt được mọi
mầm mống khổ đau.
Giáo lý Tứ-Diệu-Đế đã được Đức Phật
trình bày một cách khoa học và khác thường để giúp cho người Phật tử lĩnh hội
giải quyết rốt ráo những vấn đề trong cuộc sống và trên đường tu hành một cách
nhanh chóng và hiệu quả.
Khoa học là từng phần một Đức
Phật đã chỉ ra rõ ràng, thực tế, có chứng minh cụ thể, thấy kết quả ngay, mang
tính thực nghiệm cao, để người Phật tử tin ngưỡng theo đó mà áp dụng dễ dàng và
nhanh chóng trong đời sống và trên đường
tu.
Khác thường là Ngài đã lập luận
khác với cái thông thường mà con người đã làm, đã nghĩ. Thông thường ta lập
luận sự việc theo luật Nhân quả là định luật đã có từ khi vũ trụ hình thành,
tức là khi vũ trụ hổn độn đã phân cực ra hai phần âm và dương (Dịch-lý
gọi là Lưỡng nghi). Có nguyên nhân thì có kết quả. Như ta thường lập luận :
nguyên nhân vì sao sinh ra khổ, phải tìm phương pháp để diệt khổ. Nhưng trong
Tứ Diệu Đế, Đức Phật đã đưa ra kết quả trước rồi mới nói nguyên nhân sinh ra
kết quả đó. Cụ thể là trong trình tự khổ, tập, diệt, đạo Ngài đã nói KHỔ ĐẾ
trước (kết quả), rồi mới nói TẬP ĐẾ sau (nguyên nhân), nói DIỆT ĐẾ trước (kết quả) rồi mới nói ĐẠO ĐẾ sau (nguyên nhân). Nhằm mục đích chỉ cho chúng sanh thấy cái kết quả,
hậu quả của việc mình làm (tu học) để
mà lo liệu tính toán giải quyết (tu hành).
Lập luận nầy rất
thực tế trong đới sống của chúng sanh. Ví như con người trồng cây chẳng hạn, vì
thiếu nghiên cứu hay lười biếng để khi thấy cây bị khô héo, cằn cỗi hay sâu ăn (kết quả) rồi mới tưới nước, bón phân
hay bắt sâu (nguyên nhân). Nếu một
người có chuyên môn thì khi trồng cây
phải lựa giống tốt, trồng xong phải thường xuyên tưới nước, bắt sâu, bón phân
theo định kỳ, như vậy làm sao cây có thể khô héo, cằn cỗi, sâu ăn được. Một con
chó là động vật gần gũi con người nhất, vì tham ăn quá (nhất là chó hoang sợ bị tranh mồi) nên bị mắc xương (kết quả) rồi mới tìm cách dùng hai chân
trước cạy xương ra khỏi miệng (nguyên
nhân). Nếu một con chó khôn thì trước khi ăn nó phải xem nên ăn phần nào
trước phần nào sau và ăn từ từ, như ta thường thấy những chú chó cưng nuôi
trong nhà.
Trong kinh Tứ Diệu Đế đáng chú ý là các
nhà nghiên cứu đã chia kinh ra hai cặp nhân quả :
*
Cặp nhân quả thứ nhất gồm :
- Quả trước : sự hiện diện của khổ (Khổ đế),
- Nhân sau : nguyên nhân sinh ra khổ (Tập đế).
* Cặp
nhân quả thứ hai gồm :
- Quả trước : diệt khổ để được an lạc (Diệt đế),
- Nhân sau : phương
pháp diệt khổ (Đạo đế).
Điều nầy đã giúp cho chúng sanh nhận
biết sự việc nhanh chóng để tìm cách giải quyết.
Tóm lại, Tứ-Diệu-Đế (Bốn chân lý nhiệm mầu) là một giáo lý
thực tiển, một giáo lý rất đặc biệt và khác thường trong Phật giáo. Giáo lý này không những học để biết, để tin, mà còn
để ứng dụng, để thực hành trong cuộc sống và trên đường tu, để chuyển hóa con
người trong đời sống hằng ngày từ khổ đau đến an lạc, từ vô minh đến giác ngộ.
Người Phật tử phải học kỹ để thấu đạt giáo lý nhiệm mầu nầy, nhất là phần
Đạo-đế. Vì đó là phương tiện hữu hiệu nhất để bước đầu đưa ta chứng quả vị A-la-hán, đồng thời tu tiếp pháp
môn đã chọn để đi đến niết bàn, giác ngộ và giải thoát.
Trên đây là những trình bày còn non cạn
về giáo lý Tứ-diệu-đế, kinh đầu tiên của Đức Phật Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni sau
khi đắc đạo đã thuyết pháp. Nếu có gì còn thiếu sót, con cúi xin trên Chư Tôn
Đức hỷ xả và chỉ bày thêm. Kính mong quý chư Thiện tri thức góp ý bổ sung để có
thêm tư liệu giúp cho Phật tử thông hiểu trên đường tu hành được thuận lợi.
Nam mô thường tinh nhẫn Bồ-Tát,
Nam mô thường viên giác Bồ-Tát,
Nam
mô thường hoan hỷ Bồ-Tát,
Nam mô thường tự tại Bồ-Tát ma ha tát.
Đà Nẵng, tháng 10-2015
NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét