BỐN
TÂM
VÔ LƯỢNG
(Tứ vô lượng tâm)
(Tứ vô lượng tâm)
NGUYÊN CHƯƠNG
Mạn đàm
TỊNH THẤT NGUYÊN CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An, xã Tam Dân, huyện Phú Ninh
tỉnh Quảng Nam
tỉnh Quảng Nam
ấn tống
Bốn tâm vô lượng (Tứ
vô lượng tâm) là 4 hạnh tu căn bản của Phật giáo : Từ - Bi - Hỷ - Xả. Người
Phật tử phải luôn bồi dưỡng 4 tâm hạnh nầy thật viên mãn thì mới có thể tu đắc
pháp và hướng dẫn người khác tin và nghe theo mình đi đúng chánh pháp được.
Gọi là vô lượng tâm nghĩa là tâm không có hạn lượng, là tâm lan tỏa khắp
cùng vũ trụ, ở đâu có sự sống là ở đó hiện diện 4 tâm vô lượng. Người Phật tử
phải xây dựng cái tâm bình đẳng và to lớn vô lương vô biên, rốt ráo đó để tu
hành viên mãn, để nhìn thấy Cực Lạc ngay trong tâm mình chứ không đâu xa. Có
nhiều người thấy mình có tâm tốt chút ít thì lấy làm tự mãn, cho như thế là đủ
rồi, không cần phát triển thêm nữa, hay thấy được người chung quanh tung hô thì
lấy làm kiêu hãnh, đắc ý. Suy nghĩ đó, hành động đó thật là tai hại, rất dễ rơi
vào chấp trước, dẫn đến tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, mất hết tâm đạo.
Bây giờ chúng ta đi sâu vào mỗi nội dung trên để hiểu rõ hơn về BỐN TÂM
VÔ LƯỢNG, lấy đó làm cầu đò vượt qua mọi ngăn trở trên đường tu Bồ-Tát hạnh. Bồ-Tát
hạnh có viên mãn, Bồ-Tát giới có giữ trọn thì mới hoàn thành Bồ-Tát đạo để làm
nền tảng tu thành Phật được.
1. Tâm TỪ : Từ nghĩa là hiền,
là trải lòng yêu thương vô lượng đến với tất cả mọi loài chúng sanh. Từ chính
là liều thuốc của Đức Phật để đối trị sự hận thù và ghen ghét.
Người Phật tử phải thương yêu quí trọng mọi loài chúng sanh như chính bản
thân mình, không thờ ơ dững dưng trước những rủi ro trong cuộc sống của người
chung quanh, nhất là họ hàng thân thiết. Khi thấy ai ốm đau, hoạn nạn, thiếu thốn,
thì tùy theo sức mình, ta phải chung tay góp sức giúp họ vượt qua khó khăn.
Không giết hại loài vật dù là con sâu con kiến.
Có chi đừng giữ riêng
mình,
Nên đem chia xẻ chung
quanh hưởng cùng.
Trải tâm ra đến tận
cùng,
Ôm đau thương hết vào
lòng xẻ chia.
Thương người nắng sớm,
mưa khuya,
Lênh đênh bể khổ đâu kia
là bờ,
Thương đàn em nhỏ dại khờ,
Thiếu cha mất mẹ bơ vơ
cõi đời,
Thương người già yếu
không nơi
Náu nương sớm tối rã rời
thân cô,
Thương người tàn tật, thế
cô,
Thương người cơ nhỡ, lộ
đồ sa chân.
Thương người như thể
thương thân,
Cứu người đâu kể xả thân
vì người…
Đi đường thấy một cây đinh, một miếng mẻ chai, một cục đá, một nhánh cây,
một vật cản nguy hiểm, nên dừng lại lượm vất vào nơi an toàn, đó là thể hiện
lòng từ bi vô lượng không quản ngại khó khăn, không phân biệt lớn nhỏ. Đức Khổng
Tử bên Tàu đã dạy : “Đừng khinh việc nhỏ, lổ nhỏ làm đắm thuyền”.
Tu là
hành chứ không phải lý thuyết suông. Tu mà chỉ nói nơi cửa miệng chứ không bằng
hành động thực tế thì không phải là thực tu, đó gọi là xảo ngôn. Tự mình làm hoặc
tham gia bố thí phóng sanh là thực tu, là công đức vô lượng, còn tụng kinh gỏ
mõ chỉ là tu phước điền.
Tu là lăn xả giúp đời,
Tu không ôm mõ mà ngồi tụng
suông…
2. Tâm BI : Bi nghĩa là cảm thương, là trải lòng trắc ẩn
trước những khổ đau thăng trầm của cuộc sống. Bi chính là phương thuốc của Đức
Phật để trị liệu sự hung bạo và thờ ơ.
Thấy người bị thương đau đớn như chính ta đau đớn, thấy người đói khát
như chính ta đói khát, thấy người đau khổ thương khóc vì mất thân nhân như
chính ta mất thân nhân,… Đó là lòng bi mẫn Phật luôn nhắc nhở người Phật tử ghi
tâm khắc cốt.
Trong kinh Vu Lan báo hiếu có mấy dòng ở phần đầu kinh mỗi khi đọc lên
nghe nhức nhối tận tâm can :
“Đáo bán lộ rành rành mắt
thấy,
Đống xương khô bỏ đấy
lâu đời,
Phật bèn dạo bước đến
nơi,
Lạy liền ba lạy rồi rơi
giọt hồng”.
Tâm bi của Phật là như vậy đó ! Trong khi đó có người cho rằng đã tu rồi
thì không vướn trần nữa, không để trần cảnh làm bi lụy thân tu, không được khóc
lóc khi thân nhân qua đời. Nói như vậy là vô cảm trước cuộc sống vốn nhiều khổ
đau nầy, là đánh mất Bồ-Tát hạnh trong tâm, là mất đạo tâm, là bất hiếu là tội lỗi lớn nhất của đời người như lời Phật dạy. Phật dù đã thành Phật
nhưng Phật không đánh mất tâm Bồ-Tát. Khi đã thực hành Bồ-Tát-hạnh lăn xả vào đời
cứu khổ thì phải hằng thuận chúng sanh như 10 hạnh Phổ-Hiền. Nếu sợ trần cảnh
làm rối tâm thì lên núi cao rừng thẵm mà tu cho mau đắc pháp, đừng ở chùa rồi
khởi tâm tham sân si làm khổ Phật tử. Lăn xả vào giúp đời mà không vướn trần cảnh
mới là chân tu. Có câu chuyện khi Phật còn tại thế, người viết đã thể hiện bằng
thơ (trong thơ Đường Tu) như sau :
Ngày xưa Phật tổ tu
hành,
Suốt ngày dong ruỗi đâu
cần chùa to.
Bữa cơm đạm bạc đơn sơ,
Ngồi ăn chạnh nhớ bên bờ
nương kia,
Chúng sanh thiếu đói sớm
khuya,
Phật buồn rơi lệ nên lìa
bữa ăn…
Tâm Bi của Phật là như vậy đó ! Ai nói tu là vô cảm. Phật là người đa cảm
nhất trên thế gian nầy. Chính vì đa cảm nên Phật mới từ bỏ cung vàng điện ngọc,
vợ đẹp con thơ đi tìm con đường đưa chúng sanh thoát khổ, nên Phật mới thương
yêu tất cả mọi loài chúng sanh, Phật mới khóc trước khổ đau của chúng sanh,
Phật giáo kêu gọi lòng từ bi, Nho giáo đề xướng sự trung thành và tha thứ.
Trung
ngôn chánh pháp đồng nhất nghĩa, thiện tâm tương hợp đồng nhất lý (nghĩa là : lời nói đúng, Pháp tu chính tuy
ngôn ngữ diễn đạt khác nhau nhưng cùng một nghĩa, tâm lành hợp nhau nên nói ra
cùng một lý lẻ). Đó là lời dạy cao cả của các bậc Thánh nhân. Nếu chúng ta
thực hiện lòng từ bi hỷ xả, sự trung thành và tha thứ viên mãn thì chúng ta cũng là
những Thánh nhân vậy.
Thấy người lao khổ,
truân chuyên,
Ra tay cứu giúp,chẳng
kiên chẳng nài,
Thấy người cơ nhỡ đường
dài,
Thành tâm bố thí một vài
bữa ăn,
Thấy người già yếu khó
khăn,
Xót thương nâng đỡ, ân cần
xẻ chia.
Thương người nắng sớm
mưa khuya,
Lênh đênh bể khổ đâu kia
là bờ.
Thương đàn em nhỏ dại khờ
Thiếu cha mất mẹ bơ vơ cõi đời.
Thương người già yếu không nơi
Náu nương sớm tối, rã rời thân cô.
Thương người tàn tật,thế cô,
Thương người cơ nhỡ lộ đồ sa chân.
Thương người như thể thương thân,
Cứu người đâu kể xả thân vì người...
Thương đàn em nhỏ dại khờ
Thiếu cha mất mẹ bơ vơ cõi đời.
Thương người già yếu không nơi
Náu nương sớm tối, rã rời thân cô.
Thương người tàn tật,thế cô,
Thương người cơ nhỡ lộ đồ sa chân.
Thương người như thể thương thân,
Cứu người đâu kể xả thân vì người...
3. Tâm HỶ : Hỷ nghĩa là vui, là chân thành chia xẻ niềm vui và hạnh
phúc cùng với mọi người. Hỷ chính là liều thuốc của Đức Phật để đối trị sự hung
bạo và thờ ơ.
Khi ta có được niềm vui và hạnh phúc, hãy chạnh lòng nhớ đến đến những
người chung quanh còn bất hạnh hơn ta, ít nhiều gì đó cũng nên đem chia xẻ với
nhau để cùng vui vẻ hạnh phúc, từ đó niềm vui và hạnh phúc của ta được nhân lên
gấp bao nhiêu lần.
Ví dụ đơn giản, Khi nấu một món ăn ngon, chợt nhớ đến nhà hàng xóm khó
khăn, ta múc một ít đem qua biếu họ, họ vui mừng lắm, khi đó ta về ăn bữa cơm
càng thấy ngon hơn. Khi còn đi học tôi đọc một câu chuyện nhỏ đăng trên báo mà
cảm động và nhớ mãi, tên truyện là “Bát canh tình nghĩa”, tôi xin kể lại
ngắn gọn :
Trong một xóm nghèo nọ, có một gia
đình nghèo nhất, thường hay được các gia đình khác giúp đở. Một hôm gia đình đó
nấu một nồi canh nếm thấy ngon quá, nghĩ đến nhà bên cạnh mình, bèn múc một bát
đem qua biếu. Nhà nọ lại vừa ăn cơm xong, nên vui vẻ nhận và liền đem biếu lại
một nhà khác. Nhà khác nhận xong chợt nhớ đến một nhà khá giả trước đường thường
hay giúp đở mình, liền đem ra thành tâm kính biếu. Nhà khá giả nọ vui mừng tiếp
nhận và cảm động vô cùng, nhưng nghĩ đến gia đình nghèo nhất trong xóm nên đem
qua biếu lại, nói là vừa nấu nồi canh ngon quá nên đem biếu. Khi người nhà khá
giả ra về, người vợ nhà nghèo khóc rưng rức vì tủi thân. Nhưng người chồng thì
chợt vỗ tay lên đùi cười ha hả rồi nói : “Châu về Hiệp Phố ! Cuối cùng bát canh
ngon cũng trở về với ta. Hahaha…”
Câu chuyện tuy đơn giản nhưng ý nghĩa thật thâm cao.
Lại nữa, tự nhiên có người nào đó vì một chút hiểu lầm nhỏ mà chửi mắn
ta, đánh ta. Thì thay vì chửi đánh lại, ta bình tỉnh né tránh và vui vẻ xin lỗi
dù biết rằng ta không có lỗi. Khi người đó bớt hung hăng rồi ta mới nhỏ nhẹ phân
trần với tình thương và sự cảm thông, chắc chắn người đó sẽ dịu lại và thấy rõ
đúng sai ngay.
Hoặc khi có người đang có được niềm vui và hạnh phúc làm họ phấn khích
tinh thần, ta đến vui vẻ chúc mừng họ bằng tình cảm chân thành nhưng không can
dự vào, chứ không thấy thế mà ganh tị chê bai vô bỗ.
4. Tâm XẢ : Xả nghĩa là buông
bỏ, xả là trải lòng vị tha và nhẫn nhịn trước những nghịch cảnh của cuộc sống.
Xả chính là phương thuốc của Đức Phật để
đối trị sự rối loạn và ưu phiền.
Tâm xả là tâm bình đẳng, vì chúng sanh ai cũng có Phật tánh như nhau, do
màn vô minh che lấp nên mới khởi tham, sân, si, tạo ra phiền não khổ đau, trôi
lăn mãi trong luân hồi sanh tử.
Trong cuộc sống đầy bất trắc nầy, không ai là không khổ tâm, không lo
toan. Từ người giàu đến người nghèo, từ người tu xuất gia đến người tu tại gia,
kể cả người đã tu đắc pháp đều khổ tâm, lo toan như nhau. Nhưng khác nhau ở việc
lo, cách lo và mục đích lo. Người giàu thì lo mất của, làm ăn thua lổ,… Người
nghèo thì lo thiếu đói, bệnh tật,… Người tu tại gia thì lo làm ăn sao cho chính
đáng, đừng phạm giới,… Người xuất gia thì lo giữ đúng giới luật, lo sao cho
chúng sanh sáng suốt đi đúng chánh pháp, tinh tấn tu hành, không bỏ đạo,…
Tất cả đều lo, nhưng lo với cái tâm buông xả, nghĩa là không dính mắc
vào cái lo đó, thì sẽ hạnh phúc vô cùng. Còn lo mà sợ người khác không biết
mình lo, lo mà sợ không thành công thì phí công vô ích, thì cái lo sẽ làm cho
tâm nặng nề u uất dẫn đến mõi mệt thân xác. Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học đã
nói trước khi khởi nghĩa chống Pháp rằng : “Không thành công thì cũng thành nhân”
là vậy.
Như Quán-Thế-Âm Bồ-Tát nguyên là một vị cổ Phật, thấy chúng sanh mê mờ
trôi lăn trong biển khổ trầm luân nên đã nguyện xuống hàng Bồ-Tát để xả thân cứu
khổ chúng sanh. Đó là tâm xả của Bồ-Tát. Tâm Xả thuộc về Vô-úy-thí, nghĩa tâm bố
thí vô điều kiện, ba-la-mật.
Còn chúng ta, như làm một việc thiện chẳng hạn, khi làm xong thấy tâm ta
vô cùng hoan hỷ và hạnh phúc. Nhưng rồi nên quên nó đi để tiếp tục lo việc thiện
khác, như vậy ta sẽ tiếp tục có thêm nhiều niềm vui và hạnh phúc nữa. Hành động
đó gọi là thi ân bất cầu báo, gọi là Bồ-Tát hạnh. “Bồ-Tát chỉ chỗ chúng sanh lấy kho
báu, nhưng Bồ-Tát không nhặt một viên ngọc nào” là ý đó. Còn lo xong một
việc thiện rồi chờ cho người ta cảm ơn, tung hô, ban thưởng giấy nọ lời kia thì
không còn thiện nữa, mà dính mắc vào tham sân si, sẽ tạo nghiệp, nghiệp là khổ,
khổ là còn lẩn quẩn trong vòng luân hồi sanh tử.
Tóm lại, BỐN TÂM VÔ LƯỢNG (Tứ vô
lượng tâm : Từ-Bi-Hỷ-Xả) là điều kiện căn bản cho người tu tại gia cũng như
xuất gia. Có Tứ-vô-lượng-tâm viên mãn rồi mới được mọi người tin ngưỡng, từ đó
mới dẫn dắt chúng sanh làm ăn chân chính, tu hành thành công được. Tứ-vô-lượng-tâm
là 4 tâm vô lượng nên không lúc nào gọi là đủ cả, mà phải dung nhiếp thực hành
suốt đời. Người tu hành nếu không có Bốn tâm vô lượng là đi ngược lại với đạo,
dù tu vạn kiếp cũng không thành công.
Trước khi tạm kết thúc bài viết nầy, con cúi xin trên chư Tôn Đức nếu có
gì thiếu sót thì chỉ bày thêm. Kính mong quý chư Thiện tri thức hoan hỷ góp ý bổ
sung để bài viết được đầy đủ hơn, góp phần hướng dẫn Phật tử đi đúng chánh pháp
trên đường tu tập.
Nam mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát,
Nam mô Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát,
Nam mô thường hoan hỷ bố thí Bồ Tát,
Nam mô thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát
ma ha tát.
Quảng Nam, tháng 10-2015
NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét