6 pháp tu
ĐỘ
MÌNH
ĐỘ NGƯỜI
(Lục độ ba-la-mật)
NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm
TỊNH THẤT NGUYÊN
CHƯƠNG
Tổ 2, thôn Khánh An,
xã Tam Dân, huyện Phú Ninh
Tỉnh Quảng Nam
ấn tống
LỤC ĐỘ tức 6 pháp tu để độ mình độ người, là :
Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn,
Thiền định, Trí huệ. Nói đến Lục độ
là nói đến tu Bồ-tát-đạo, muốn tu Bồ-tát-đạo trước hết phải phát hạnh nguyện Bồ-đề-tâm,
tức thực hành Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ,
Xả). Muốn Tứ vô lượng tâm viên mãn để vun bồi Bồ-tát-hạnh thì phải diệt tam
độc (tham lam, sân hận, si mê) do
thân, miệng, ý sinh khởi. (Tứ vô lượng
tâm người viết trình bày trong quyển “Bốn tâm vô lượng”).
Bồ-tát-hạnh là hạnh quên mình lăn xả
giúp đở mọi người. Muốn tu Bồ-tát-hạnh phải lấy chúng sanh làm đối tượng để tu
hành, vì ta cũng là chúng sanh. Chúng sanh vui ta vui, chúng sanh khổ như chính
ta khổ.
Thương người như thể thương thân,
Cứu người đâu kể xả thân vì người…
Đã tu trong cõi ta-bà,
Xả thân cứu khổ mới là chân tu.
Đức Phật Bổn sư Thích-Ca-Mâu-Ni đã dạy
:
“Thế gian nầy chẳng nên tranh đấu với nhau,
bỡi vì mọi người đều là một thể, nhưng xưa nay con người vốn không phân biệt được
nhân ngã mà thôi. Tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chẳng
có vật nào độc lập mà tồn tại. Mình và vạn vật đã nương nhau để sống còn thì việc
ban bố lòng thương và ân huệ cho chúng sanh khi mới nhìn thì giống như vì người,
nhưng thật ra đối với chính mình thì lợi ích còn lớn hơn nhiều”.
Tất cả người và vật
trên thế gian nầy đều có sự liên quan nhau từ vô thỉ cho đến ngày nay và mãi về
sau theo luật Duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Giữa ta với người nào đó hiện
nay không quen biết mà mới gặp đã thấy mến nhau, do có thể kiếp xưa là thân thích họ hàng. Giữa ta với một
con vật có thể kiếp xưa là bà con hay bạn bè thân thiết nên hiện tại ta thấy
thương mến nó. Vân vân… Ta làm được món nầy nhưng không làm được món khác,
trong khi người khác làm được món đó nhưng không làm được món ta làm, vì thế phải
trao đổi nhau mà sống để được đầy đủ và tồn tại.
Trong 6 pháp tu trên thì Bố thí, Trì giới,
Nhẫn nhục thuộc tu Phước, còn Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ thuộc tu Huệ. Cho
nên phải tu đủ 6 pháp thì mới viên mãn Phước và Huệ, mới đắc pháp Bồ-tát-đạo.
Bây giờ chúng ta đi sâu vào mỗi pháp tu
để nắm vững giáo lý nhiệm mầu của Phật trên đường thâm nhập Bồ-tát-đạo viên mãn
hầu dễ dàng trong việc độ mình và độ người.
1.BỐ
THÍ : Bố thí là cho, biếu, tặng để giải trừ lòng tham lam bỏn xẻn và trả
nghiệp xưa.
Có
bốn loại bố thí : tài-thí, pháp-thí, vô-úy-thí, bất-nghịch-ý-thí. Trong đó
bất-nghịch-ý-thí thuộc về tu Phật quả, như Đức Phật trong một kiếp xưa khi còn
Bồ-Tát ẩn tu trong rừng đã thí thân cho hai mẹ con cọp bị đói ăn vì thương hại
nó nên được đắc quả Phật. Ở đây ta chỉ mạn đàm về ba hạnh bố thí trong phạm vi
tu Bồ-tát-đạo thôi.
-Tài
thí : Là đem một phần tiền bạc của cải mình có để giúp đở người khác khi họ
gặp hoạn nạn tai ương. Làm đường, làm cầu bắc qua sông suối, xây mới hay tu sửa
trường học, nhà vệ sinh công cộng cho xóm nghèo, làm nhà tình thương, cứu trợ
bão lụt,… là tài thí. Tài thí phải trong khả năng mình có, không nên vay mượn rồi
lo lắng ân hận làm tổn phước.
-Pháp
thí : Là biên soạn, in sách giáo lý, đĩa thuyết pháp đem tặng người chung
quanh để họ hiểu rõ Phật pháp mà tin ngưởng
tu hành. Thuyết pháp độ sanh của các bậc cao Tăng là Pháp thí lớn. Trong các loại
Bố thí thì Pháp thí là cao nhất, phước đức to lớn nhất. Trong kinh Pháp Cú Phật
đã dạy : “Pháp thí thắng vạn thí”.
-Vô
úy thí : Là đem niềm an vui đến cho mọi người, giúp cho người bớt lo lắng sợ
hãi. Ta có trách nhiệm khéo léo và nhẹ nhàng giải thích cho mọi người hiểu rõ
chánh pháp của Phật để bớt lo sợ vì mê tín dị đoan. Đạo Phật chỉ tin vào nhân
quả chứ không tin gì khác. Nhưng chúng sanh tin thì có. Đối với quỉ thần người
Phật tử chân chính chỉ kính lễ chứ không sợ sệt, vì họ cũng nằm trong Lục đạo
luân hồi, cũng chịu khổ đau trong cõi ta-bà nầy như ta, nên ta phải dùng trí
Bát-nhã chân thành khuyên nhủ họ tu hành, vì họ không còn thân tứ đại nặng nề
như ta nữa nên tu mau đắc pháp hơn ta nhiều. Trong cuộc sống đầy bất trắc nầy,
ta nên thường an ủi động viên những ai đang phải chịu nhiều rủi ro khiến họ lo
sợ khiếp đảm tinh thần.
Những rủi ro trong đời sống là do nghiệp
xưa ta gieo, nên kiếp nầy phải nhận để trả chứ không ai bắt bớ ta cả. Vì ta lo sợ
quá, mê tín quá nên tà vạy mới nhập vào quấy nhiễu. Cũng như chiếc ra-đi-ô vậy,
vì máy yếu hay hư hỏng nên mỗi lần bắt sóng một đài thì có nhiều đài khác xen
vào gây nhiễu loạn tiếng nói.
Đạo Phật là đạo từ bi, là tôn giáo hằng
hữu trong đời sống của mỗi chúng sanh. Chúng sanh vui Phật Bồ-Tát vui, chúng
sanh khổ như chính Phật Bồ-Tát khổ. Mỗi khi ta hướng đến chia xẻ niềm vui và nỗi
khổ của chúng sanh thì lúc đó ta là Phật Bồ-Tát vậy. Nên một vị Thiền sư bên
Tàu ngày xưa đã nói : “Một giờ thiền là một giờ Phật, một ngày thiền
là một ngày Phật, một đời thiền là một đời Phật” là ý đó.
Bố thí là việc đem lại lợi ích cho mọi
người. Nhưng nếu xét theo luật Nhân quả thì cái gì cũng có nguyên nhân của nó.
Khi ta giúp đở một người cũng có thể kiếp xưa ta đã nợ người đó, kiếp nầy do
nhân duyên ta được trả nợ và gieo tiếp phước cho mình về sau. Còn người nhận là
nhận cái phước quả họ đã gieo nhân lành kiếp trước kiếp nầy họ được hưởng vậy.
Mỗi lần tụng kinh xong hay làm một việc
thiện, ta thường đọc bốn câu nầy :
Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Sự hồi hướng đó chính là bố thí công đức
lớn. Việc bố thí phải mang ý nghĩa ba-la-mật, nghĩa là không phân biệt chấp trước
người cho và người nhận, cho và nhận đồng một thể, gọi là Thi ân bất cầu báo thì mới
là bố thí chân thật. Bố thí vô chấp thì phiền não sẽ không sanh, phiền não
không sanh thì không tạo nghiệp, không tạo nghiệp là ta đã cắt đứt được sợi dây
luân hồi sanh tử vậy.
Bố thí ngoài việc giúp cho ta giảm trừ
được tính tham lam bỏn xẻn, mà còn là cơ hội để ta trả nghiệp xưa và gieo thêm
mầm phước cho đời sau kiếp sau.
Phải mau sám hối hồi tâm
Bỏ chừa tội trước, gieo mầm phước sau.
Bố thí còn giúp cho ta phát triển trí huệ, bằng
cách chú ý quan sát cái tâm thiện hay bất thiện trước, trong và sau khi bố thí
tâm ta có bị vọng động hay không, tham sân si có khởi dậy hay không. Vì thế bố
thí vừa độ người và cũng vừa độ mình, nó tạo duyên đưa mình và người từ bến mê
qua bờ giác ngộ.
2.
TRÌ GIỚI : Trì giới là giữ nghiêm giới
luật, để trừ tâm ô nhiễm và không rơi vào tà vạy.
Người tu tại gia thì phải giữ nghiêm 5
giới cấm căn bản : không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,
không uống rượu bia và dùng các chất kích thích khác có hại cho thân thể. Người
xuất gia thì phải nghiêm giữ 10 giới Sa-di, 250 giới Tì kheo, 348 giới Tì kheo
ni. Thầy chùa mà uống rượu bia, hút thuốc, đánh bạc, nằm giường rộng, dâm loạn, cất giữ nhiều tiền bạc... là phạm 5 giới cấm căn bản của Phật
giáo, như vậy không còn đạo hạnh để dẫn chúng tu tại tại gia.
Người tu hành phải giữ cho thân, miệng,
ý luôn thánh thiện. Ngoài việc không hành hung sỉ nhục kẻ khác thì cũng không
khơi dậy lòng hận thù trong họ, phải luôn làm cho mọi người quanh ta nhận thấy
được sự an lành thân thiện từ ta để họ tin tưởng cùng ta đi theo chánh pháp.
Việc trì giới nên tự tâm chứ không chấp
tướng. Chấp tướng là bên ngoài tỏ ra trì giới nghiêm mật trong khi tâm chứa đầy
ô nhiễm thì cũng như không. Tu tâm chứ không tu tướng. Ví như ăn
chay là phát khởi từ tâm, chứ không nguyện ăn chay trong bao nhiêu ngày đó để cầu
xin việc nầy việc nọ, rồi sau đó lại ăn thịt cá thật nhiều để bù lại. Hay như
có người phát nguyện ăn chay ngày rằm và mùng một hằng tháng, nhưng lại trông
cho qua 24 giờ sang ngày hôm sau để ăn tô bún giò cho đả thèm. Làm như vậy càng
mang tội lỗi thêm vì dối lừa Phật Trời, thà đừng ăn chay như vậy thì hơn. Không
nên :
Ăn chay, kinh kệ sớm chiều,
Trong khi tâm chứa trăm điều ố hoen.
Tam quy, ngũ giới Phật răn,
Quy rồi lại để trong ngăn tâm phàm…
Trì giới phải bằng hạnh ba-la-mật, chứ
không theo kiểu tự cao tự đại khoe khoan ta đây ăn chay trường để cho mọi người
thấy ta đang tu, người xuất gia thấy người khác phái gặp nạn liền mô Phật lánh
xa chứ không ra tay cứu giúp vì sợ phạm giới nam nữ cận kề, như vậy là chấp, mà chấp là mất đạo tâm. Lâu rồi tôi đọc
trong quyển “Góp nhặt cát đá” của Thiền
sư Suzuki bên Nhật sưu tập các chuyện Thiền, có câu chuyện rất hay về ý nghĩa trì giới và chí dứt bỏ như sau :
Có
hai nhà sư trên đường về chùa buổi chiều gần tối, khi qua một con suối nước lớn
chảy xiết, gặp một cô gái đứng bên nầy suối khóc thút thít. Vị Thiền sư khách
chắp tay Mô Phật rồi lội qua suối, vì giới luật Thiền Nhật bản cấm Thiền sư
không được chung đụng nữ giới. Vị Thiền sư chủ thì thấy thương tâm liền nói với
cô gái tội nghiệp :
- Con ngồi lên lưng Thầy cõng qua suối
cho…
Cô gái rụt rè thưa :
- Bạch Thầy, con sợ Thầy phạm giới ạ…
- Không sao đâu, cứ để thầy cõng qua, chứ
trời tối rồi mà con đứng đây một mình e thú dữ ăn thịt mất.
Cô gái nghe nói sợ quá liền nhảy lên
lưng vị Thiền sư chủ cõng qua suối.
Trên đường về chùa, vị Thiền sư khách
im lặng nặng nề bực dọc. Đến cổng chùa, chủ mời khách vào nghỉ đêm. Vị Thiền sư
khách liền lớn tiếng :
- Ông đã phạm giới cấm nghiêm trọng rồi,
tôi không vào chùa ông đâu.
Vị Thiền sư chủ cười thoải mái rồi nói
:
- Ủa, tôi đã bỏ cô gái xuống bên bờ suối
rồi mà Thầy lại tiếp tục cõng cô ấy về đến đây à. Hèn chi mà thấy Thầy nặng nề
quá. Tội nghiệp, tội nghiệp. Hahaha…
Vị Thiền sư khách chợt tỉnh ngộ bèn quỳ
lạy vị Thiền sư chủ xin làm đệ tử.
Trì giới bằng cái tâm vô chấp, bằng tâm từ bi
hỷ xả, bằng sự tự nguyện viên mãn, chứ
không bằng cái tướng hình thức, vì hoàn cảnh ép buộc, hay để cầu xin. Trì giới
không chỉ giữ giới luật nghiêm mật, mà còn phải tỏ thái độ hòa ái, quan tâm đến
với người chung quanh nữa, mong cầu mọi người cũng trì giới tinh tấn như mình để
cùng được giải thoát.
Phật đã dạy : trì giới ba-la-mật là dấu
hiệu chứng đắc tâm thức chân thật của người Phật tử, nó có công năng vượt xa Bố
thí. Vì người nào bố thí mà không trì giới thì không thể hoàn thành Bồ-tát-giới
viên mãn được, vì người đó tạo phước mà cũng đồng thời tạo nghiệp, có nghiệp là
vẫn còn trong vòng luân hồi sanh tử.
Trong Tam-vô-lậu-học (Giới, Định,
Tuệ)
thì Giới là hạnh đứng đầu. Vì nếu không giữ Giới thì Tâm không Định, mà Tâm
không định thì Tuệ không khai mở.
3.
NHẪN NHỤC : Nhẫn nhục là nhường nhịn, để trừ tâm sân hận và cố chấp. Đây là
đức tính tốt đẹp được tán thán trong hầu hết các kinh sách Phật giáo.
Muốn thực hiện hạnh Nhẫn nhục viên mãn
thì cũng như các hạnh khác phải diệt tham, sân, si do thân, miệng, ý khởi sinh.
Nếu không viên mãn hạnh Nhẫn nhục thì rất khó đạt được Bồ-đề-tâm. Nhẫn nhục có
:
-Thân
nhẫn : Là dù cho thân thể ta có bị người đánh đập, hành hạ, hay bị ốm đau
thương tật, thì cũng kham chịu, không kêu la phàn nàn hay chống cự lại, phải
bình tĩnh sáng suốt tìm phương cách thoát ra khỏi tai ương đó. Phải khoan dung
để tránh gây nghiệp, vì nếu lấy oán trả oán thì đời đời kiếp kiếp phải chịu oan
gia tương báo trong cõi luân hồi. Nên lấy ân trả oán thì mới dứt được nghiệp. Đức
Khống Tử bên Tàu ngày xưa đã dạy : “Người xử tốt với ta, ta xử tốt, người không
xử tốt với ta, ta cũng xử tốt. Đó là đức tốt” (Thiện giã ngô thiện chi, bất thiện giã ngô diệc thiện chi. Đức thiện).
-Miệng
nhẫn : Là cho dù người có mắng nhiếc ta, nói xấu ta, thì ta cũng im lặng
tha thứ, chứ không đáp trả lại. Làm như vậy là ta đã đẩy được nghiệp lại người
đó phải nhận vì họ gieo nhân xấu. Đức Phật đã dạy : “Cho dù người có mắn nhiếc, đánh
đập con thì con cũng lấy lòng từ bi mà tha thứ cho họ”. Đức Khổng Tử
bên Tàu cũng đã dạy : “Ngậm huyết phun người trước dơ miệng mình” (Hàn huyết phún nhơn tiên ô tự khẩu) là
ý nghĩa đó.
-Ý
nhẫn : là luôn giữ tâm ý trong sạch, an lạc, không để trần cảnh lôi kéo. Chỉ
cần một niệm thiếu nhẫn nhục khởi lên là kéo theo vô số nghiệp.
Trong ba nhẫn thì ý nhẫn là quan trọng và khó
thực hiện nhất, vì ý dẫn đầu các pháp. Nhiều người kiềm chế được thân và miệng
nhưng trong lòng thì ngầm căm hận đến bầm gan tím ruột, như vậy chưa đạt được ý
nhẫn. Muốn thực hiện được ý nhẫn thì phải thực hành từ bi hỷ xả thật viên mãn.
Còn nhẫn nhục để đạt công danh địa vị,
để chờ đợi được khen, hay để tìm cơ hội trả thù là nhẫn nhục do dục vọng tham
sân si mà có chứ không phải nhẫn nhục ba-la-mật. Nhẫn nhục ba-la-mật là nhẫn nhục
buông xả, không chấp trước, không mưu cầu.
4.
TINH TẤN : Tinh tấn là giữ cho thân tâm trong sạch, để trừ dục vọng tà vạy khởi
sinh làm lu mờ chánh pháp. Đi trên dòng sông tâm linh là bơi thuyền Bát-nhã ngược
dòng với những thường tình của thế gian, tinh tấn là mái chèo và sự kiên nhẫn của
người tu vậy.
Người tu hành nếu không nổ lực tinh tấn
thì rất khó đạt được đạo giải thoát. Tinh tấn làm cho các điều lành tăng trưởng
trong đời sống. Người tinh tấn là người luôn có lòng vị tha, hay phát tâm bố
thí, phóng sanh, thích nghiên cứu, biên soạn giáo lý Phật pháp, thích sưu tầm
những lời hay ý đẹp của người xưa. Tu hành đừng cố chấp vào phương tiện, mà phải
chú tâm vào cứu cánh là mong cầu giải thoát. Vì thế càng tinh tấn tu tập thì
càng đến gần bờ giải thoát, trí huệ nhanh chóng được khai mở.
Tu là mong muốn đoạn trừ phiền não để
tìm lối thoát ra khỏi luân hồi sanh tử, rời khỏi sông mê đến bến bờ giác ngộ.
Cho dù làu thông kinh sách, nói pháp lưu loát, mà không nổ lực tinh tấn thì
cũng giống như ngồi trên chiếc bè mà không chèo chống thì làm sao qua bờ bên kia được, tinh tấn là mái chèo và sự
nhẫn nại vậy.
Trong cuộc mưu sinh, càng tinh tấn thì
càng dễ thành công. Người làm việc tinh tấn là tập trung vào công việc một cách
chăm chú kiên trì không mệt mỏi cho đến khi đạt được kết quả mong muốn. Tinh tấn
ví như nguyên liệu xăng, cho dù xe tốt, đường phẳng, tài xế giỏi, nhưng nếu
không có xăng thì xe không chạy được.
Vì thấy tầm quan trong của tinh tấn
trên đường tu hành như thế, nên trước khi nhập diệt Đức Phật Bổn sư
Thích-Ca-Mâu-Ni đã dạy các đệ tử lần cuối : “Hỡi các đệ tử thân yêu của ta !
Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát”.
5. THIỀN ĐỊNH : Thiền định là tập
trung tâm ý vào một mục đích thánh thiện duy nhất, để đoạn trừ tâm nhiễu loạn.
Thiền tiếng Phạn là Dhyana, Tàu phiên
âm là Thiền-na, gọi tắt là Thiền, nghĩa là tư duy hay tĩnh lự. Tư duy là tu tập
bằng phương pháp suy nghiệm giáo lý, tĩnh lự là dùng tâm vắng lặng để quán sát
các vấn đề đạo pháp. Nói cách khác, Thiền định là tập trung trọn vẹn tâm vào một
vấn đề giáo pháp nhất định để quán sát suy xét cho thấu đáo tận tường.
Phật đã dạy : “Trong mỗi chúng sanh đều có nhân
chủng Phật. Chúng sanh thành Phật Phật chủng không tăng, chúng sanh
đọa tam đồ Phật chủng
không giảm”. Vì màn vô minh che mờ nên chúng sanh đánh mất Phật tánh của
mình để phải trôi lăn mãi trong lục đạo luân hồi sanh tử. Muốn phá bỏ vô minh để
nhìn thấy Phật trong tâm, người tu dù là pháp môn nào cũng phải ngồi Thiền mới
khai mở được trí huệ (người viết đã trình
bày chi tiết trong quyển “Phương pháp ngồi Thiền”).
Khi Thiền định viên mãn thì người tu sẽ đạt
được những kết quả to lớn sau đây :
- Năm căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, ý) đều được thanh tịnh, sáng suốt, chánh định sẽ phát khởi,
- Tâm từ bi được tăng trưởng, trải lòng
thương yêu mọi loài chúng sanh, mong muốn mọi chúng sanh đều được hạnh phúc,
- Các phiền não do tham sân si không còn
khởi sanh nữa,
- Tâm Bồ-đề kiên cố, không còn bị lay động
bỡi ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức),
lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp),
- Ái dục không còn phát sinh nên tâm
không bị ô nhiễm,
- Chứng đắc được chân như Phật tánh nên
không bị rơi vào hư vọng tà kiến,
- Tận diệt được ràng buộc của thế trần để
được khai mở trí huệ, giải thoát và chứng ngộ niết-bàn.
6.
TRÍ HUỆ : Trí huệ là tâm trí sáng suốt, để trừ tâm si mê ám chướng. Trí huệ
ba-la-mật là điều kiện tối hậu để thấu triệt giáo lý cao siêu của Phật.
Trong Tam-vô-lậu-học (Giới, Định, Huệ), Giới làm cho thân và
khẩu được thanh tịnh, Định giúp cho tâm được an trụ, từ đó Trí huệ sẽ phát
sinh, là phần tâm linh quan trọng nhất giúp cho con người đạt đến cứu cánh giải
thoát, giác ngộ niết-bàn.
Khi Trí huệ được khai mở, con người sẽ
nhìn thấy rõ ràng sự biến động không ngừng của vạn vật trong vũ trụ, nên không
còn chấp trước vào bất cứ sanh diệt nào của thế gian. Những huyễn vọng sanh diệt của thế
gian chỉ đáng trả giá bằng một nụ cười bao dung. Từ đó chơn tâm được
viên mãn, viên thành Bồ-tát-đạo.
Tóm lại, 6 pháp tu để độ mình và độ người
(Lục độ ba-la-mật) là giáo lý lớn của
Phật giáo để tu Bồ-tát-đạo. Người Phật tử nếu phát tâm tu hành rốt ráo 6 pháp nầy
sẽ đạt được Bồ-tát-hạnh, viên thành Bồ-tát-đạo, làm bệ phóng vững chắc tiến tới
tu Phật-đạo để thành Phật.
Cuối cùng con kính xin trên chư Tôn Đức
hoan hỷ chỉ bày thêm những chỗ còn thiển cận. Mong quý chư Thiện tri thức góp ý
bổ sung để bài viết nầy được hoàn chỉnh hơn, góp phần hướng dẫn Phật tử tu hành
đúng chánh pháp của Phật.
Nam mô thường bố thí phóng sanh Bồ Tát,
Nam mô thường tinh nhẫn Bồ Tát,
Nam mô thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát
ma ha tát.
Phú Ninh-Quảng
Nam, tháng 11-2015
NGUYÊN CHƯƠNG
mạn đàm
Bìa sách
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét